Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư Sĩ Niệm Phật - Động Hay Tịnh?

23 Tháng Tám 202017:00(Xem: 4788)
Cư Sĩ Niệm Phật - Động Hay Tịnh?

CƯ SĨ NIỆM PHẬT- ĐỘNG HAY TỊNH?

(NHẤT TU THỊ, NHỊ TU SƠN!)

 

Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật

Quả thật ở giữa chốn thế gian lao xao này có quá nhiều động loạn. Mở mắt ra là ta gặp ngay “Lục Trần” chào đón: 

* Mắt ta sẽ thấy ngay: nhà cửa, đền đài, dinh thự nguy nga hay những mái nhà xiêu vẹo, những ngôi nhà nhỏ bé đơn xơ, hay những túp lều ọp ẹp không che đủ nắng mưa; xe cộ du lịch đắt tiền sang trọng hay xe tải chở hàng từ loại nho nhỏ cho đến loại to đùng; xe mô-tô oai phong khí phách hay xe gắn máy khiêm tốn giản dị; con người thì cũng đủ hạng từ hèn hạ-nghèo khổ cho đến quí phái-giàu sang-sung sướng; từ sơ sinh-bé bỏng cho đến giả cả tóc bạc-da nhăn-lưng còng, … 

* Tai ta cũng sẽ nghe đủ loại tiếng động, âm thanh: Tiếng nhạc du dương, thánh thoát êm tai làm dịu mát tâm hồn hay là những loại âm thanh quảng cáo đinh tai-nhức óc, những bài nhạc kích động làm bể tim người nghe. Tiếng động thì cũng đủ loại luôn hiện hữu chung quanh ta, vang lên ầm ỉ bên tai chúng ta một cách thoải mái-vô điều kiện! Tai của chúng ta cũng sẽ được nghe lời khen-chê; nịnh hót, hoặc bợ đỡ-dèm xiểm, hại người; hoặc lời khích lệ, an ủi, khuyên lơn, thức tỉnh-khai ngộ; hay lời chê bai, chà đạp, bày chuyện xấu xa gian hiểm hại người.

* Mũi ta cũng sẽ được ngửi mùi một cách bị cưỡng bức, không được chọn lọc những mùi thơm tho-dễ chịu; hay là mùi tanh, hôi, thối-khó chịu. (Ở các nước kém văn minh, môi trường không sạch sẽ)

* Lưỡi ta mỗi ngày cũng sẽ được tiếp xúc những vị chua, cay, mặn, lạt, đắng, chát, ngọt, bùi, … có vị làm ta khoái khẩu muốn ăn, uống thưởng thức hoài không biết chán; cũng có vị khi chạm đến lưỡi làm ta cảm thấy khó chịu ngay lập tức, cảm thấy bực bội, có khi nổi sân lên đùng đùng.

* Thân ta thì sẽ xúc chạm đến những vật mịn màng, trơn láng, êm tay, êm người làm ta khoan khoái, dễ chịu. Rồi ta cũng có thể sẽ gặp những vật thô cứng, xù xì, bén nhọn, gai góc, … làm ta khó chịu, đau đớn, trầy xước, thương tích, …

* Ý của ta cũng sẽ nhảy nhót lăng xăng suốt ngày, suốt đêm (không hề lười mỏi!). Khi thì vui vẻ, hân hoan, phấn khởi, nhiệt tình, chân thật, hòa nhã, … với những suy nghĩ, những công việc, hoặc với những ai đó. Khi thì buồn bực, cau có, thụ động, thiếu nhiệt tình, giả dối, khiếm nhã, … với cả trong suy nghĩ của chính mình, với công việc, hoặc với một số người quanh ta.

Đó là cái “động” chung quanh chúng ta và rất có thể một số người muốn chạy trốn, bỏ các động này để tìm một thế giới êm đềm, tĩnh lặng cho riêng mình chăng? Rất có thể lắm!

 

Nhưng cũng có loại người không thể chịu được sự vắng vẻ, tĩnh lặng, không ồn náo. Họ sẽ cảm thấy buồn chán, thấy như mình bị bỏ rơi, thấy như mình trở nên vô dụng. Cũng có khi sự vắng lặng, êm đềm, tịch mịch gây cho một số người có cảm giác sợ hãi, hoặc rơi vào bệnh trầm cảm.

 

CƯ SĨ PHÙ HỢP VỚI ĐỘNG HAY TỊNH?

 

Rõ ràngthế giới quanh ta luôn luôn động dù ta có muốn hay không! Như thế thì ta có nên vận dụng cách nào để tránh né hoặc làm tiêu đi những động loạn chung quanh ta chăng?

Tôi nhớ trong dân gian có câu: “Nhất tu thị, nhị tu sơn”. Vậy là qua câu nói ngắn gọn này, ông bà ta xưa kia rõ ràng đã trải qua cuộc sống muôn màu muôn vẻ và đúc kết kinh nghiệm quý báu bằng suốt cuộc đời con người, bằng sự nhận thức của biết bao thế hệ để truyền cho hậu thế về bản lĩnh sống và cách áp dụng Phật pháp vào đời sống

 

Thông thường thì chúng ta bắt gặp cách suy nghĩ rất đơn giản, đó là: Ở núi thì vắng vẻ, thanh tịnh, êm đềm, tịch mịch cho nên rất dễ lắng tâm tu học, hành trì Phật pháp. Còn ở chợ thì quanh năm suốt tháng ồn ào, động loạn; tranh danh-đoạt lợi; mê đắm vật chất xa hoa; lăn lộn theo những ham muốn thú vui trần tục; suốt ngày chỉ loay hoay trong vòng thị phi: Khen-Chê; Phải-Quấy; Được-Mất; Hơn-Thua, Thắng-Bại; Trắng-Đen; Vinh-Nhục; Giàu-Nghèo; Sang-Hèn; Già-Trẻ; Khôn-Dại; …Cho nên chúng ta nghĩ ra một phép so sánh trực quan, đó là: TU Ở CHỢ THÌ KHÓ HƠN LÊN NÚI ĐỂ TU!

 

Nếu suy nghĩ như vậy có đúng hay không? Đúng! Nhưng tại sao lại cho rằng đúng? Mà đúng ở mức độ nào? Và cái đúng này có ích gì cho đời tu của chúng ta hay không? Và ông bà ta xưa kia đã dựa vào đâu để khẳng định “Nhất tu thị, nhị tu sơn”. Và câu nói này có ý nghĩa thế nào, áp dụng như thế nào vào sự hành trì Phật pháp trong cuộc sống hằng ngày của người cư sĩ.

Thật ra ông bà ta xưa kia hiểu rất thấu đáo, sâu nhiệm về nghĩa lý ẩn tàng trong Phật pháp, và các vị đã khéo léo chuyển ngữ lại theo cách nhìn trực quan để người đời dễ hiểu hơn và có thể ứng dụng thực hành Phật pháp ngay trong cuộc sống bận rộn này. Vậy là câu nói nào trong Phật pháp là câu nền tảng? Trong “Pháp Bảo Đàn kinh” bài kệ tụng phần sau của phẩm Bát nhã Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thê mích Bồ Đề, kháp như cầu thố giác”. Nghĩa là: Phật pháp nơi thế gian, Không lìa thế gian (để tìm) giác, Lìa thế tìm Bồ Đề, Giống như tìm sừng thỏ. Tạ ơn chư Phật luôn từ bi gia hộ, thương yêu chúng sanh. Lời dạy dỗ của chư Phật thấm nhuần vào lòng dân tộc Việt Nam chúng con. Ông bà xưa của chúng con đã luôn biết áp dụng, hành trì Phật pháp ngay trong cuộc sống bận rộn hằng ngày. Từ sự giải ngộ sâu sắc, các vị Phật tử ngày xưa đã sống mạnh mẽ, trung kiên ngay trong cuộc đời! Dù gian nguy, bão tố nhưng những người con Phật vẫn thấm nhuần lời dạy của Phật và luôn sách tấn, hỗ trợ nhau đi trọn con đường tự giác - giác tha. Đến đây, có thể có người nói rằng những lời tôi tán thán vể ông bà, tổ tiên người Việt Nam chúng ta giác ngộ giáo lý Phật Đà sâu sắc, thực hành rốt ráo pháp tu Phật dạy; ấy là xuất phát từ sự chủ quan và tưởng tượng lạc quan thần tượng về dân tộc. Nên xin phép cho tôi được trình bày một vài từ tiếng Việt để minh chứng cho sự phong phú, sâu sắc về ý nghĩa Phật học ẩn tàng trong ngôn ngữ Việt Nam.

 

Trước hết tôi xin thuật một câu chuyện mà một người bạn đạo của tôi hay kể: “Phạm Công Thiện có nói rằng tiếng Việt theo ông là rất khó hiểu. Và đến lúc ông nói điều đó, ông vẫn chưa hiểu được. Đó là từ ‘TỰ NHIÊN’”. Thú thật rằng anh bạn tôi nhắc đến chuyện đó nhiều lần, thì tôi chỉ cười lấy lệ chứ thật tình tôi không hiểu điều ông Phạm Công Thiện nói là gi???!!! Rồi đến một ngày (lâu lắm), tôi hốt nhiên bừng tỉnh. À thì ra! Quả đúng “Tự Nhiên” là từ vô cùng khó hiểu trong tiếng Việt. Quý vị, thấy từ này “dễ hiểu” hay “khó hiểu”. theo tôi thì ông Phạm Công Thiện bày tỏ rất đúng, rất chân thật. Bởi vì: …..Làm sao mà một hành giả trên bước đường học Phật, đang lần mò từng bước trên sự hành trì Phật pháp, chưa nhận rõ chân tướng chư pháp đúng-sai, chân-giả, … thì làm sao có thể hiểu được sự “TỰ TẠI - AN NHIÊN”. Đây là một từ ghép vô cùng hay, vô cùng thâm thúy, … và quả thậtvô cùng “KHÓ HIỂU”.

 

Từ thứ hai thì tôi phát hiện trong một giây phút bất chợt trong một ngày nọ. Tôi bỗng dưng nghĩ đến từ “TẾ NHỊ”. (Từ này tiếng Việt diễn tả tính chất của một người lịch sự, khôn khéo, nội tâm thấu đáo-sâu sắc. Quí vị có đồng ý như vậy không?). Ngay giây phút ấy, như một tia chớp lóe lên trong trí tôi và tôi hốt nhiên chợt hiểu ý nghĩa đặc biệt, quan trọng của từ này. Tổ tiên chúng ta quả vô cùng “tế nhị” khi sáng tạo từ này. Tôi xin phép được phân tích: NHỊ có nghĩa là hai; TẾ có nghĩa tinh tế, vi tế. Như vậy, người tế nhị là người thấu được sự vi tế hai đầu đối đãi của chư pháp. Đó là chỗ tôi cảm nghĩ về từ “Tế nhị” ngày xưa; nhưng mới đây tôi được cư sĩ Nguyễn Minh Tiến phân tích chữ “Tế Nhị” theo gốc Hán tự thì nghĩa của nó càng rành mạch, chính xác hơn: 

“Tế nhị (細膩), trong đó chữ tế là nhỏ nhặt, tinh vi đúng rồi, nhưng chữ nhị không phải là hai, mà chữ nhị này nghĩa là trơn láng, trơn nhẵn”. (Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến)

Như vậy là chỗ thấy của tôi trước đây khi nghĩ từ “Tế nhị” là không kẹt hai đầu đối đãi; nhưng thật ra là do tâm tôi bị kẹt ở hai đầu nên đã gán ghép nghĩa cho từ như thế. A Di Đà Phật! Nay nhờ cư sĩ Nguyễn Minh Tiến phân tích chân tướng của từ này, tôi càng yêu quí biết bao sự vun bồi tiếng Việt của tổ tiên. Ông bà ta xưa kia muốn con cháu người Việt sống với tâm hồn thánh khiết, thiện lành trong mọi điều tinh tế, nhỏ nhiệm nhất. Nếu  được  như thế thì thì xã hội, cộng đồng sẽ an lành, hạnh phúc biết bao. Và đó cũng là nhân thù thắng cho những ai thiết tha, thành khẩn tìm cầu, nghiên cứu, và nỗ lực thực hành Phật pháp

Người giữ tâm hồn mình luôn an bình - thanh tịnh (trơn láng, phẳng phiu) dầu việc nhỏ nhiệm, vi tế nhất (vọng tưởng) cũng không để gợn lên tí nào gai góc, xù xì, đó là người “tế nhị”. Ôi, tiếng Việt thật là thâm thúy - diệu kỳ! Thật tổ tiên người Việt chúng ta sâu sắc và chu đáo biết bao!

Như thế, ta có thể vô cùng tự hào về sự thâm trầm-tao nhã nhưng vô cùng phong phú và sâu sắc của tiếng Việt; cũng như không thể nào không tán thán về trình độ am tường Phật pháp của tổ tiên người Việt chúng ta. Các vị đã sáng tạo các từ ngữ để diễn tả sự thâm sâu của giáo pháp Đại thừaTối Thượng Thừa. Điều này minh chứng rằng tổ tiên chúng ta tinh thông Phật pháp và khéo léo ứng dụng, hành trì Phật pháp ngay trong cuộc đời, ngay trong cuộc sống bận rộn này mà tu, mà sống với Tự Tánh Di Đà thanh tịnh, sáng suốt.

 

Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ nghe má tôi sử dụng một từ mà bà hay dùng để “mắng yêu”, nghe rất ngộ nghỉnh. Nhưng sau này lớn lên, nghiên cứu và hiểu Phật pháp phần nào thì tôi rất ngạc nhiên về tính chất sâu sắc, hóm hỉnh của từ này. Đó chính là từ “GIẢ NGỘ”. Vâng chính hồi xưa má tôi hay mắng: Á, cái thằng “giả ngộ” này! Giờ nhớ lại, tôi thấy thật lý thú! Như vậy là hồi xưatình trạng này: “không tu mà nói là tu”; “không ngộ mà nói rằng ngộ”. Từ này được lưu truyền phổ biến trong dân gian. Đây cũng là một điều xác chứng rằng Phật học gắn liền với mạch sống của dân tộc Việt Nam. Phật pháp hầu như gắn liền cùng sinh hoạt của toàn dân. 

 

GIỜ CHÚNG TA CÙNG TRAO ĐỔI, BẮT ĐẦU TỪ VIỆC TU CÙNG SỰ “ĐỘNG” CỦA THẾ GIAN NHÉ?

Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: “Phật pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác, Ly thế mích Bồ Đề, Cáp như tầm thố giác”. Ta vâng lời dạy của Lục Tổ: ta chỉ tìm Phật pháp tại thế gian này, vì lìa thế gian mà tìm Phật pháp chẳng khác nào đi tìm sừng thỏ. Như vậy, kể từ giờ trở đi ta sẽ không sợ sự “động loạn” của thế gian nữa bởi vì ta đang tìm Phật pháp nơi chính sự “động loạn” của thế gian này. Nhưng ta sẽ hành trì như thế nào? Ta sẽ …

Bắt đầu một ngày mới ngay khi vừa mở mắt thức giấc, ta mỉm cười với lòng thành kính tạ ơn thập phương chư Phật, Tổ, chư vị Tông sư, ân sư, … đã ban mọi ân lành cho ta và khởi niệm hồng danh “Lục Tự Di Đà”. Kính chào cha hoặc mẹ ta và niệm hồng danh A Di đà Phật. Chào vợ (hoặc chồng) ta và niệm A Di Đà Phật. Chào các con và niệm A Di Đà Phật. Đi đánh răng, súc miệng luôn niệm hồng danh A Di Đà Phật. Giả sử định lau mặt, nhưng khăn bị rớt; thay vì bực bội, ta hãy mỉm cười, cúi xuống nhặt chiếc khăn mặt lên trong khi niệm A Di Đà Phật. Bước ra nhà trước, ta nghe trước nhà ta có tiếng người gây lộn, cãi nhau ỏm tỏi, họ đang dùng lời lẽ tục tĩu chửi nhau rất ồn ào. Thay vì trước kia ta rất bực tức, mở cửa ra và quát họ đi chỗ khác ngay lập tức. Nhưng bây giờ, biết tu rồi ta làm thinh bỏ qua như không nghe gì; chỉ một lòng niệm Phật và lo việc của ta. Thay đồ xong dẫn xe ra để đi làm mới chợt nhớ ra hôm qua đi làm về tới nhà thì xe vừa hết xăng; nhưng vì trời mưa nên không đi đổ xăng. Giờ nhận ra, thay vì trước kia ta nổi sân lên; nhưng giờ mỉm cười: “Lỗi tại ta!”, miệng niệm Phật và dẫn xe đi đến trạm xăng để đổ xăng cho chiếc xe; lòng cảm thấy an vui vì câu Phật hiệu luôn hiện hữu cùng ta trên đường. Trên đường đi làm, nhiều xe chạy không lịch sự lấn đường, ép ngay bánh trước làm ta suýt bị ngã xe (xe gắn máy mà bị ép bánh trước rất nguy hiểm). Dầu rất bực bội, phiền lòng nhưng ta vẫn cố bỏ qua vì Phật không bao giờ muốn chúng ta nổi sân. Thật là khó làm! Nhưng cố gắng làm thì thần lực của Phật sẽ gia hộ cho chúng ta vượt qua. A! ta làm được rồi! Rồi đến lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, … ta sẽ làm được, ngày càng dễ dàng hơn, vui vẻ hơn vì chư Phật luôn gia hộ cho chúng ta khi làm được việc tốt mỗi ngày. Rồi đến cuối ngày, khi ra về thì trời mưa thật lớn. Chắc chắn rằng mình sẽ ướt loi ngoi mặc dầuáo mưa. Nhưng nếu không đội mưa để về thì nếu mưa ngày càng to và mưa dai nữa thì đường sẽ ngập lụt mất thôi. Chán quá đi mất! Nhưng đó là chuyện ngày xưa, khi gặp hoàn cảnh như vậy thì ta sẽ lo cuống cuồng, nghĩ biết bao nhiêu chuyện. Rồi lòng cảm thấy bất an. Rồi lòng cảm thấy phiền muộn. Thậm chí còn mắng trời, trách đất. Rồi nhùng nhằng không quyết định được là sẽ đi hay ở lại đụt mưa tiếp. Lằm bằm, rồi lằm bằm; than thở rồi thở than; nhăn mày nhăn mặt rồi chắt lưỡi hít hà. Ôi phiền não cứ nối tiếp phiền não! Vọng tưởng cứ như chuỗi xích sắt quay tròn liên tục, liên tục không dừng không nghỉ. Giờ mới thấy được thế nào là chân tướng chúng sanh si mê, vọng tưởng. Ôi những làn sóng vô minh, phiền não nhấn chìm ta xuống bễ thẳm sinh tử, luân hồi

Nhưng giờ ta có lời dạy của Phật, Tổ rồi. Đấy chính là thế gian hư ảo! Ta sẽ tìm Phật pháp ngay tại vọng tưởng điên đảo ấy. Nam Mô A Di Đà Phật! Câu Phật hiệu vang lên như ánh bình minh rực rỡ xua tan bóng đêm tăm tối, hắc ám. Nam Mô A Di Đà Phật! Phật ban cho ta nụ cười, niềm an lạc diệu kỳ hiện hữu cùng với thần lực A Di Đà Phật trong thân ta, trong tâm ta, trong trí ta. Ôi, con vô cùng biết ơn Phật, Tổ luôn từ bi gia hộ cho chúng con có thể nếm được pháp vị ngay tại thế gian này, ngay chính nơi vọng tưởng điên đảo nếu chúng con chỉ một lòng nhớ Phật A Di Đà.

 

GIỜ CHÚNG TA HÃY TRAO ĐỔI VỀ CẢNH “TỊNH” TRONG PHÁP TRÌ DANH NIỆM PHẬT. Có phải trong cảnh giới vắng lặng, thanh tịnh thì hành giả dễ hành trì pháp môn niệm Phật không? Nghe qua thì có vẻ là như vậy. Rõ ràng là khung cảnh vắng lặng, yên tịnh thì ta dễ tập trung tư tưởng vào việc thực hiện một công việc nào đó. Giả dụ như quý vị tập đàn, đánh bóng bàn, lau nhà, lau xe, lau kiếng, làm bài tập toán, làm bài luận văn, làm bếp, giặt đồ, … thì mọi việc thấy tốt phải không? Nhưng ngẫm nghĩ lại thì những công việc đó thật ra là “Tịnh trong Động”. Giờ chúng ta sẽ tìm một việc “TỊNH” hơn hẳn xem sao nhé?

 

Ta thử chọn thời điểm cuối cùng trong ngày, xong hết cả mọi việc cần làm trong ngày rồi. Giờ, ta sẽ dành một khoảng thời gian trong khung cảnh vắng lặng, yên tỉnh để hành trì niệm hồng danh “Lục Tự Di Đà”. Ta tập trung tâm trí hoàn toàn vào câu Phật hiệu. Ôi, thật là tốt đẹp. Sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” nghe thật ngọt ngào, khoan thai; tuy mềm mại nhưng thật tha thiết, ẩn chứa nỗi lòng thành khẩn, tôn kínhxưng tán hồng danh A Di Đà Phật. Được hai phút, rồi năm phút, rồi mười phút, rồi mười lăm phút, … bỗng dưng đang niệm Phật ta lại sực nhớ là ngày mai có một người bạn từ phương xa hẹn về thăm gia đình ta. Ô là la! Vậy mà suýt nữa là ta quên rồi. Chết chữa! Vậy là mai phải tìm một cớ nào để xin phép nghỉ làm một ngày; vì anh bạn này lâu lắm mới có dịp về thăm ta. Nhưng vợ ta không biết có sắp xếp thời gian rảnh để tiếp vợ của người bạn được không? Vì cô ấy cũng đi làm mà. Tuần này công việc bề bộn quá, nhiều việc lo đến bù đầu bù cổ thôi! May là đến giờ chót này mình lại nhớ được cuộc hẹn. Chứ không thì không biết ra sao nữa! Ôi chà, lát nữa mình sẽ nói cùng bà xã. Chắc lại nghe bã cằn nhằn quá. Thôi kệ, chứ biết làm sao? Rồi sau khi bã đã vui vui thì mình sẽ bàn với bã làm món nào đãi khách nữa chớ. Mình đến nhà người ta tiếp đãi ân cần, giờ mà sơ sót thì kỳ lắm, và có lỗi với họ nữa! Ôi, chết rồi! Nãy giờ chỉ lo chuyện khách ngày mai mà quên bẳng đi việc niệm Phật rồi. Thôi giờ cứ niệm cho xong. Làm nhanh rồi còn bàn công việc với bã nữa. Hôm khác thì chúng ta lại có việc khác. Có khi việc này chưa xong thì việc khác đã xuất hiện trong tâm trí chúng ta rồi. Ta rán bỏ qua việc này thì việc nọ lại đến. Như vậy xét cho cùng thì trong cảnh tịnh, mọi vọng tưởng điên đảo càng làm việc ráo riết hơn cả trong cảnh động nữa. Nếu vậy thì chúng ta có cách nào khắc phục, có cách nào đối trị vọng tưởng không? 

 

Vâng quả là có cách. Rất cám ơn là Ông bà chúng ta xưa kia đã tìm mọi phương tiện để bỗ trợ cho phương cách trì danh niệm Phật. Nếu “TỊNH” làm duyên cho vọng niệm sanh khởi thì ta sẽ biến thế tịch tịnh này thành ra “Động trong Tịnh” hay “Tịnh trong Động” bằng cách rất đơn giản ta là sẽ lần chuỗi trong khi trì danh niệm Phật. Thì trong khi tâm hướng vê Phật, miệng niệm “Lục Tự Di Đà”, tay lần từng hạt chuỗi: vọng tưởng điên đảo nếu móng khởi, ta sẽ niêm chúng dính vào từng hạt chuỗi và như thế chúng sẽ không vùng vẫy mà làm tâm ta loạn động, bất an nữa.

Nhưng nếu giả dụ như dịp nào đó phải đi xa nhà, và khi ấy lại không có chuỗi bên cạnh thì làm thế nào? Nếu quen dùng chuỗi làm neo để cột trói vọng tưởng, mà không có chuỗi thì khó mà an tâm cho được!!! Không sao! Tôi đề nghị quí vị sử dụng ngay chính phương tiện hữu dụng mà chúng ta sẽ không bao giờ quên, không bao giờ thiếu vắng; phương tiện này luôn hiện hữu để giúp đỡ chúng ta. ĐÓ LÀ:

Quí vị sẽ lấy ngón tay Cái của mình tì ngay đầu ngón tay Út và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, xong quí vị sẽ kéo ngón Cái qua và tì vào đầu ngón Đeo nhẫn và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, kế tiếp lại kéo ngón Cái qua ngón Giữa và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, rồi thì kéo tiếp ngón Cái qua đầu ngón Trỏ và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Xong một lượt quí vị có thể trở lại tư thế ban đầu và cứ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục.

Hoặc giả quí vị có thể niệm Phật với bàn tay trái một lần, rồi chuyển qua niệm Phật với bàn tay phải. Và rồi cứ tiếp tục niệm Phật với sự luân phiên trợ giúp của hai bàn tay, thì quí vị vừa có thể cột trói mọi vọng tưởng loạn động mà còn có thể khống chế được con “ma buồn ngủ” nữa đấy!

 

Tạ ơn Phật, Tổ đã bày mọi phương tiện giúp chúng con vượt thoát sông mê, bể khổ. Chúng con biết rằng chỉ khi chúng con lập chí dõng mãnh, tinh tấn hành trì niệm “Lục Tự Di Đà” miên mật, ngày đêm luôn nhớ tưởng Đức Từ Phụ thì dầu “Động” hay “Tịnh” chúng con sẽ luôn an lạc trong hồng danh A Di Đà Phật!

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 

Kính ghi,

 

Nguyễn Tấn Phát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37943)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19709)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18809)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14397)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20213)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9586)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14442)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35706)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19812)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23296)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13432)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10812)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20327)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10694)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10049)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14950)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17779)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17708)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13252)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31276)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25900)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14050)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17593)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11057)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12361)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10534)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12347)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11853)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9676)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12428)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9266)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8554)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10031)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9806)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12109)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14546)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9961)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11266)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11052)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14200)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9973)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15303)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13166)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23199)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24153)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12680)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15531)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17891)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15159)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16649)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16228)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17777)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11685)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11715)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17950)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10882)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10580)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11417)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12142)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11112)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36505)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9030)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9752)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34819)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17356)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10307)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10537)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12263)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13735)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14756)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9221)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24975)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11710)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16036)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15665)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13088)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12524)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18451)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9634)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18634)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18719)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19148)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18958)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11878)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13415)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48054)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11134)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13627)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13118)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11174)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12641)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11099)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31906)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11752)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10197)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant