Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sáu Yoga của Naropa

11 Tháng Ba 201400:00(Xem: 14703)
Sáu Yoga của Naropa

SÁU YOGA CỦA NAROPA

Dịch : Garma C. C. Chang và Glenn H. Mullin
Nguyên tác: Six Yogas of Naropa & Teachings on Mahamudra Garma C. C. Chang. Snow Lion 1986.
Readings on the Six Yogas of Naropa Glenn H. Mullin. Snow Lion 1997
Nguyễn An Cư và Trùng Hưng Việt dịch, NXB: THIỆN TRI THỨC, 2003


sau_yoga_cua_naropa

  Nội dung
 Vào Đề
 Phần I. Giáo lý Đại Ấn
 Bài Ca Đại Ấn
 Lời Nguyện Đại Ấn
 Những Cơ Bản của Thực Hành Đại Ấn

 Phần II. Tóm lược một dẫn nhập vào Sáu Yoga của Naropa
 Tóm lược một dẫn nhập vào Con Đường Thậm Thâm
 Sáu Yoga của Naropa

 Phần III. Những Bản Văn về Sáu Yoga của Naropa
 Giáo Huấn Khẩu Truyền về Sáu Yoga của Naropa
 Những Câu Kệ Kim Cương của Truyền Thống Thì Thầm nơi Tai
 Bản Chép Tay Con Đường Thậm Thâm
 Sáu Yoga của Naropa : Một Nguồn

 Tài Liệu của Mọi Chứng Ngộ

 Vào Đề

 Nếu huyền học được định nghĩa, trong một nghĩa rộng, như là “Giáo thuyết nói rằng hiểu biết trực tiếp về “Thượng Đế” hay thực tại tâm linhthể đạt được qua trực giác tức thời”, thì Mật giáo Tây Tạng cũng được xem là một hình thức huyền học. Vấn đề ở đây là, dĩ nhiên, những từ “hiểu biết”, “Thượng Đế”, “thực tại tâm linh”, và “trực giác” được hiểu theo nghĩa nào. Một phân tích cẩn trọng về sự sử dụng những từ này liền mở ra những quan niệm phức tạp và khác biệt và thường thì không có một cái hiểu thống nhất tức thời. Dù sự tương tự bề ngoài của nhiều hình thức huyền học, giữa chúng có sự khác biệt lớn lao. Nhưng để chỉ ra những khác biệt trong chi tiết, một hiểu biết triệt để mọi hệ thống này là cần thiết, cùng với kinh nghiệm cá nhân về mỗi hệ thống như nhiều nhà huyền học đã chứng nghiệm. Những đòi hỏi này quả thật rất khó khăn, nếu không nói là không thể, đối với cá nhân ngày nay. Thế nên mục tiêu của tác giả không phải là làm một nghiên cứu bình phẩm về Mật thừa Tây Tạng đối lại những hình thức huyền học khác, mà là giới thiệu với độc giả bình thường vài bản văn quan trọng cho đến ngày nay chưa có trong Anh ngữ.

 Một vài lời về học thuyết căn bản của Mật thừa Tây Tạng và nguyên lý nền tảng bên dưới sự thực hành của nó có lẽ là hữu ích. Có thể tóm tắt như sau : “Phật tánh thiêng liêng thì toàn khắp, nhưng cách nhanh nhất để thấu hiểu sự thực này là khám phá nó trong hợp thể thân tâm của mình”. Nhờ những thực tập tâm linh và sự áp dụng những kỹ thuật Mật thừa – như Sáu Yoga – người ta có có thể sớm thấu hiểu rằng thân, tâm người ta và “thế giới khách quan bên ngoài” đều là những biểu lộ của Phật tánh thiêng liêng. Sanh tửNiết bàn, con người là “chư thiên”, những phiền não “bất tịnh” chính là những diễn đạt của Năm Vị Phật Bổn Nguyên,(1) Giác ngộ hay giải thoát không phải đạt được bằng cách nhổ sạch gốc những phiền não của con người mà là đồng hóa chúng với Trí Huệ siêu việt. Học thuyết căn bản của Mật thừa Tây Tạng như vậy có thể được gọi là một học thuyết nhìn thấy hợp thể thân tâm của con ngườitương ứng với, nếu không phải là đồng nhất với, thân tâm của Phật. Tinh thần và cách thức thực hành của mọi Yoga Mật thừa cũng đều hướng đến việc hiển lộ nguyên lý căn bản này.

 Bây giờ chúng ta hãy lấy hai cột trụ của thực hành Mật thừa, Yoga của giai đoạn Phát Sanh và Yoga của giai đoạn Thành Tựu, để làm rõ học thuyết căn bản này. Trong thực hành giai đoạn Phát Sanh, thiền giả được dạy quán tưởng và như vậy nhận thức thế giới bên ngoài như là những Mạn đà la; thân của nó là Thân của Phật Bổn Tôn; hệ thống thần kinh của nó là hệ thống năng lực Ba Kinh Mạch và các Luân Xa và các hạt bindu ; nguyện vọng và năng lực của nó là Khí-Trí Huệ và “Ánh Sáng”… Trong giai đoạn Thành Tựu, trước hết nó được dạy hòa tan tất cả Tư Tưởng-Năng Lực (hay Tâm-Khí)(2) vào Ánh Sáng Bổn Nguyên – Pháp thân – từ trước tới giờ bị dấu kín trong Trung Tâm (Luân Xa) Tim, và từ Ánh Sáng Bổn Nguyên này phóng xuất Sắc Thân (Rupakaya), và như vậy làm hoạt hóa vô số hành động của Phật quả.

 Một lý thuyết quan trọng nằm trong thực hành Yoga Tây Tạng, được gọi là “sự Đồng Nhất của Khí và Tâm” cũng cần được đề cập ở đây. Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả, Niết bànSanh tử, Khí (prana) và Tâm. Mỗi cặp nhị nguyên này bên ngoài có vẻ tương phản nhưng thật ra là một nhất thể không thể phân chia. Nếu người ta có thể hiểu trọn vẹn và làm chủ một cái thì nó sẽ tự động hiểu và làm chủ cái kia. Như vậy, người thấu hiểu tinh túy của tâm như là Trí huệ Siêu việt sẽ đồng thời thấu hiểu tinh túy của khí như là sức sống và hành động của Phật quả. Không cần thiết giải thích ở đây mọi mặt của học thuyết này, nhưng một điều rất quan trọng trong đó cần chú ý, là “tính chất hỗ tương giữa tâm và khí”. Điều này nghĩa là một loại tâm nào đó thì chắc hẳn có một khí tương ứng đi kèm, dù siêu việt hay thế tục. Chẳng hạn một tính khí, cảm nhận hay tư tưởng luôn luôn đi kèm bởi một tính chất và nhịp điệu khí tương ứng phản ánh trong hơi thở. Như vậy, sân giận không chỉ sanh ra một cảm thức tư tưởng bừng cháy mà còn một hơi thở “gồ ghề”, thô cứng. Ngược lại khi có tập trung yên tĩnh vào một vấn đề trí thức, tư tưởnghơi thở biểu lộ một sự yên tĩnh cũng như vậy. Khi tập trung sâu, như khi nỗ lực giải quyết một vấn đề tinh tế, hơi thở bị giữ lại một cách vô thức. Khi người ta ở trong một tâm thái giận dữ, kiêu căng, ghen tỵ, hổ thẹn, thương yêu, tham dục v.v…, loại khí hay prana đặc thù này có thể được trực tiếp cảm nhận trong mình. Trong đại định không có tư tưởng sanh khởi nên không có hơi thở có thể tri giác được. Vào lúc mới ngộ ban đầu, khi thức bình thường được chuyển hóa, khí cũng chịu một biến đổi “cách mạng”. Như vậy mỗi tâm thái, tư tưởng và cảm nhận – dù đơn giản, vi tế hay phức tạp – đều có một có một khí tương ứng đi kèm. Trong giai đoạn thiền định cao cấp, sự lưu thông của máu chậm lại gần như dừng, hơi thở cũng dừng, và thiền giả kinh nghiệm một mức độ sáng tỏ trong một trạng thái không có tư tưởng của tâm. Bấy giờ không chỉ một biến đổi của thức xảy ra, mà còn một biến đổi trong vận hành sinh lý của thân.

 Đặt nền trên nguyên lý này, Mật thừa Tây Tạng cho chúng ta hai Con Đường hay hai loại Yoga, cả hai cùng dẫn đến một mục đích siêu thế gian. Một cái được gọi là Con Đường của Giải Thoát, hay “Yoga Tâm” và cái kia, Con Đường của Phương Tiện Thiện Xảo hay “Yoga Năng Lực”. Cái trước giống Thiền (Zen) trong nhiều mặt bởi vì nó nhấn mạnh vào sự quan sát và trau dồi Tâm Bổn Nguyên, và chỉ đòi hỏi những chuẩn bị nghi thức và yoga tối thiểu. Cái sau là một loạt những thực hành Yoga phức tạp và nghiêm ngặt, được biết với tên Yoga giai đoạn Phát Sanh và Yoga giai đoạn Thành Tựu. Ba phần trích về Đại Ấn (Mahamudra) trong phần đầu của cuốn sách này là thuộc nhóm trước, và độc giả sẽ sớm khám phá sự tương tự lạ lùng với Thiền Phật giáo thời sơ kỳ. Sáu Yoga của Naropa là thuộc nhóm sau – một tổng hợp của hai Yoga giai đoạn Phát Sanh và Thành Tựu, với nhấn mạnh đặc biệt vào cái sau.

 Theo quan điểm yoga trong nhóm Sáu Yoga, những Yoga Nội Nhiệt và Thân Huyễn là những cái ban đầu căn bản, và bốn cái sau Giấc Mộng, Ánh Sáng, Trung ẤmChuyển Di là những phân nhánh của hai cái đầu. Tuy nhiên, đối với những người thích nghiên cứu những trạng thái “vô thức” và “siêu thức”, Yoga Giấc Mộng và Yoga Ánh Sáng có thể quan trọng hơn, bởi vì chúng cho thông tin căn bản về chủ đề.

 Để cung cấp cho độc giả một nền tảng tổng quát về Sáu Yoga, một tóm lược dẫn nhập của Lama Drashi Namjhal, một bản văn giản dị mà rõ ràng, được dịch ở đây. Bởi vì vào thời gian này dịch giả chưa đi vào nguyên bản Tây Tạng, ba bản văn Đại Ấn và Sáu Yoga của Drashi Namjhal được dịch từ những bản dịch Trung Hoa mới hoàn thành từ nguồn tư liệu Phật giáo ở Hồng Kông và Đài Loan.(3)

 Dịch giả từ chối mọi trách nhiệm đối với những độc giả thí nghiệm hấp tấp và ẩu tả Sáu Yoga này. Chỉ đọc những bản văn này không thể nào thay thế cho một vị Thầy sống, từ ngài người tìm cầu giác ngộ đứng đắn cần trước hết nhận quán đảnh và hướng dẫn trước khi bắt đầu thực hành. Đối với người nghiêm túc, cuốn sách này có thể phục vụ không khác hơn một nguồn tham khảo, quy chiếu, một dấu chỉ cho Con Đường.

 Dịch giả, sợ rằng những giáo lý quan trọng này bị mất ở đất mẹ của chúng, đã phá lệ với truyền thống từ trước đến nay “giữ bí mật” mà phát lộ chúng trong chuyển dịch Anh ngữ, với hy vọng rằng chúng sẽ có ích cho những người tìm chân lý.

 GARMA C. C. CHANG
 

 (1) Năm Vị Phật Bổn Nguyên: Tỳ Lô Giá Na, A Súc, Bảo Sanh, A Di Đà, Bất Không Thành Tựu. Các vị tượng trưng sự thăng hoa của si (vô minh), sân, kiêu mạn, tham và đố kỵ. Khi Năm Vị Phật này xuất hiện trong năm hướng của một Mạn đà la thì Mạn đà la này tượng trưng cho Phật tánh vốn sẵn nơi chính mình.
 (2) Tư Tưởng-Năng Lực hay Tâm-Khí (TT. Rlunâ Sems). Khí (prana) là cái năng lực hành động, và tâm là cái biết, cái thức. Tâm và Khí là hai mặt của một thực thể, không lìa nhau và tùy thuộc nhau.
 (3) Bản dịch tiếng Hoa Sáu Yoga của Drashi Namjhal của Mang Kung ; Bài Ca Đại Ấn của Fa Tsun; Lời Nguyện Đại Ấn của Garma C. C. Chang; và Những Cốt Yếu của Đại Ấn của vị thầy của Chang, tức là Lama Kong Ka.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21440)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22229)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16917)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13462)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22853)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19047)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18493)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21662)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20072)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14116)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15045)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17274)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15913)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13033)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13173)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22693)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19387)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37771)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17948)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14605)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19756)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14675)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15981)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29901)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17806)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18555)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19957)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19129)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18597)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20728)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19453)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18566)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29916)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21634)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20844)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26365)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 52198)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21811)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 35069)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17279)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18074)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19616)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17492)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30865)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19213)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19575)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19783)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19429)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58810)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19802)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19159)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15154)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33083)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17514)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19154)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 23053)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16647)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16522)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16569)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23016)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant