Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị thiền sư phương Tây nổi tiếng nhất thế giới

01 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 13135)
Vị thiền sư phương Tây nổi tiếng nhất thế giới

Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng trên xứ sở Hợp chủng quốc. Tuy nhiên, ít người biết rằng, để trở thành một thiền sư lừng danh ở thế giới phương Tây, cuộc đời tu thiền của Philip Kapleau đã trải qua không ít những khó khăn, gian khổ nhưng cũng vì thế mà đầy ắp những câu chuyện thú vị…

Từ vị quan tòa mê Thiền…

Thiền sư Philip Kapleau sinh năm 1912 trong một gia đình theo đạo Tin Lành thuộc tầng lớp lao động ở New Haven thuộc bang Connecticut ở miền đông bắc nước Mỹ. Cho đến trước năm 35 tuổi, khi Philip Kapleau bắt đầu những suy tư đầu tiên về Thiền, vị thiền sư Tây phương này đã sống một cuộc sống bình thường như rất nhiều thanh niên Mỹ lúc bấy giờ. Khi đến tuổi trưởng thành, Philip Kapleau bắt đầu kiếm sống bằng nghề kế toán tại một cửa hàng.

Sau đó ít lâu, Philip Kapleau quyết định theo học một khóa đào tạo luật ngắn hạn. Sau khóa học, Philip Kapleau may mắn có được một chân báo cáo viên trong tòa án liên bang ở Connecticut. Nghề báo cáo viên tòa án không để lại ảnh hưởng gì lớn trong sự nghiệp của Philip Kapleau, tuy nhiên, nó lại chính là con đường dẫn Philip Kapleau đến với Thiền tông nơi ông có được sự nghiệp lừng lẫy của mình.

Bước ngoặt trong cuộc đời của vị thiền sư phương Tây bắt đầu vào năm 1945 khi ông được lựa chọn làm báo cáo viên trong hai phiên tòa xử tội ác chiến tranh của Tòa án Quân sự Quốc tế tại Nuremberg, Đức. Tiếp đó, ông lại được chỉ định vào vị trí tương tự trong phiên tòa xử tội ác chiến tranh diễn ra ở Tokyo, Nhật Bản. Và đó cũng là thời điểm lần đầu tiên, Philip Kapleau biết tới Thiền tông.

Tháng 3/1947, Philip Kapleau đến làm việc tại Tòa án Quân sự Quốc tế tại Tokyo, Nhật Bản. So với phiên xử những tên tội phạm chiến tranh của phe phát xít, những kẻ vừa thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra tại Đức mà Philip Kapleau tham dự trước đó ít lâu, phiên xử ở Tokyo diễn ra dễ chịu và ít căng thẳng hơn. Và điều này để lại ấn tượng mạnh đối với Philip Kapleau.

 

f


Vị báo cáo viên 35 tuổi cảm thấy rằng những người Nhật ông nơi đây không giống với những người Đức ông đã từng gặp. Họ tỏ ra là những người sẵn sàng chấp nhận những đau khổ của riêng mình để trả giá cho những nỗi đau mà họ đã gây ra cho những người khác.

Một điều khác cũng khiến Philip Kapleau ấn tượng không kém chính là sự bình an và tĩnh lặng đến tuyệt vời ở nước Nhật dù chiến tranh mới đi qua không lâu, đặc biệt là vào những buổi chiều khi ông chạy bộ dưới những tán cây dẫn vào các thiền viện.

Từ việc bất ngờ, rồi tò mò và hiếu kỳ, Philip Kapleau đã bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân vì đâu có sự khác biệt giữa những người Nhật và người Đức, dù trước đây họ từng thuộc phe phát xít. Và Philip Kapleau biết được rằng, việc người Nhật sẵn sàng chấp nhận những trừng phạt là vì họ luôn tin vào “Luật nghiệp quả báo ứng”.

Khái niệm về luật nhân quả này cuốn hút Philip Kapleau vì nó hoàn toàn khác với sự tự bào chữa mà ông từng thấy ở Đức. Philip Kapleau quyết định tìm hiểu về khái niệm thú vị này. Và sự tò mò đã tạo ra cơ duyên đưa Philip Kapleau đến với đại sư D.T. Suzuki.

Tại thành phố Kamakura, ông gặp và tiếp xúc với Suzuki, nghe giảng giải về cốt lõi của nghiệp quảgiáo lý thiền Đại thừa. Sau những buổi giảng ngắn ngủi ấy, Philip Kapleau bắt đầu quan tâm đến Phật giáo.

Khi phiên tòa ở Tokyo kết thúc, Philip Kapleau quay trở lại mỹ và tiếp tục làm việc tại tòa án Connecticut. Tuy nhiên, cuộc sống của ông đã thay đổi hoàn toàn kể từ sau hai phiên tòa xử tội phạm chiến tranh ở Đức và Nhật. Những ấn tượng, suy tư không thể giải quyết triệt để cứ quanh quẩn trong đầu ông. Philip Kapleau muốn tìm hiểu và học Thiền, nhưng khi ấy, Thiền tông chưa đến được nước Mỹ.

Philip Kapleau đã phải tham gia một lớp giáo ly đạo Bahai và những cuộc họp của Hội Vệ Đà, tuy nhiên, tất cả đều không đem lại tác dụng. Mọi sự thay đổi chỉ bắt đầu khi thiền sư D.T. Suzuki đến Mỹ vào năm 1950. Ngay lập tức, Philip Kapleau ghi tên tham dự lớp học triết lý Phật giáo thiền do Suzuki đứng lớp.

Trong những bài giảng ấy, thiền sư Suzuki có nói với các học trò của mình rằng: “Thiền không phải là triết học mà là một lối sống. Nếu các vị muốn học Thiền nên đến thẳng Nhật Bản, các vị phải sống với nó và cuộc đời của các vị sẽ thay đổi”. Câu nói của thiền sư Suzuki đã tác động mạnh tới Philip Kapleau và vị báo cáo viên tòa án quyết định đến Nhật Bản để học Thiền.

Vào năm 1953, ở tuổi 44, Philip Kapleau bỏ việc tại tòa án để đến Nhật xin được xuất gia học Thiền. Tuy nhiên, lòng nhiệt tâm của Philip Kapleau đã bị dội một gáo nước lạnh khi hai vị thiền sư đầu tiên mà ông tới gặp đã từ chối không nhận ông làm đệ tử vì ông không biết tiếng Nhật. Với sự kiên nhẫn và lòng nhiệt thành cuối cùng một thiên sư tên là Soen Nakagawa ở chùa Hosshinji đã tiếp nhận Philip Kapleau.

Sau ba năm tu tại chùa Hosshinji, sức khỏe của Philip Kapleau ngày một tệ đi vì những giới luật khắc nghiệt và chế độ ăn uống thiếu thốn ở nơi đây.

 

Thiền sư
Thiền sư Philip Kapleau


Nhận thấy rằng, Philip Kapleau không thể tu thiền theo cách thông thường như những người khác, thiền sư Soen đã giới thiệu ông tới gặp thiền sư Harada. Soen nói với Kapleau rằng: “Cậu sẽ có được một sư phụ tốt hơn nhiều”. Sau khi theo học Harada 3 năm, Philip Kapleau tiếp tục theo học một thiền sư khác tên là Yasutani, người kế thừa thiền sư Harada. Và đây cũng là thiền sư mà Philip Kapleau theo học lâu nhất.

Nhờ vào những nỗ lực học tập không ngừng, vào mùa hè năm 1958, Philip Kapleau đã đạt ngộ và được thiền sư Yasutani ấn chứng ban cho danh hiệu “Thiền sư”. Thời gian sau đó, Philip Kapleau kết hôn, sinh con và bắt đầu giảng dạy trong các thiền viện dòng Harada-Yasutani. Và cũng bắt đầu từ đây, Philip Kapleau chính thức bước vào cuộc hành trình truyền bá Thiền tông đến với xứ sở phương Tây.

Đến thiền sư phương Tây nổi tiếng nhất thế giới

Với khả năng ghi tốc ký của người báo cáo viên tòa án cộng với khả năng thành thạo Nhật ngữ của mình, Philip Kapleau được thiền sư Yasutani cho phép ghi lại hầu hết các bài giảng về Thiền, phỏng vấn học sinh, các thiền sư cũng như ghi chép tỉ mỉ về cuộc sống của những người thực hành Thiền tông.

Philip Kapleau là người phương Tây đầu tiên được phép chi chép lại những bài giảng về Thiền. Và chính điều này đã giúp Philip Kapleau có được cuốn sách nhập môn Thiền kinh điển của người Tây phương. Tập hợp những gì đã ghi chép và quan sát được, Philip Kapleau đã biên soạn thành cuốn sách với tựa là “Ba cột trụ của Thiền”.

Cuốn sách đã được in và xuất bản tại Nhật vào năm 1965 bằng tiếng Anh với số lượng 150 ngàn cuốn. Cuốn sách này sau đó đã được phát hành đi khắp thế giới và được chuyển dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau. Nhưng sự nghiệp truyền bá Thiền tông của vị thiền sư Tây phương này không chỉ dừng lại ở đó.

Sau 13 năm tu học tại Nhật, năm 1965, Philip Kapleau quyết định trở về Mỹ và bắt đầu sứ mệnh truyền bá Thiền tông tới xứ sở Hợp chủng quốc. Đó là thời điểm, ông gặp hai trong số những độc giả đầu tiên của cuốn sách “Ba cột trụ của Thiền” xuất bản tại Nhật, hai thương nhân Ralph Chapin ở New York và Dorris Carlson ở Rochester.

Sau khi về nước ít lâu, Dorris Carlson đã mời ông tới Rochester để thăm một nhóm nhỏ những người tu học Thiền tông theo hướng dẫn của ông trong cuốn sách “Ba cột trụ của Thiền”.

Cho tới tháng 6 năm 1966, dưới sự giúp đỡ của Carlson, Philip Kapleau đã thành lập trung tâm Thiền Rochester. Ngay từ khi mới thành lập, trung tâm Thiền của Philip Kapleau đã liên tục mở những khóa tu cho các thiền sinh Mỹ đến tham dự. Và ngay lập tức, nó đã gây được tiếng vang lớn.

Từ giữa thập niên 60, thiền sư Philip Kapleau bắt đầu những chuyến đi giảng về Thiền trên khắp nước Mỹ. Philip Kapleau nói chuyện ở các trường cao đẳng, đại học, các hội nghị,… Bất cứ là thành phần nào, tầng lớp nào, muốn được nghe giảng về giáo lý Thiền tông, Philip Kapleau đều không ngần ngại từ chối.

Không chỉ giới hạn trong lãnh thổ nước Mỹ, Philip Kapleau đã có nhiều chuyến giảng Thiền tại Canada, Mexico, Costa Rica, Đức, Pháp và Ba Lan,… Với phong cách rất giản dị, với cách nói chuyện hài hước, dí dỏm và đặc biệt là vốn kiến thức sâu sắc về Thiền tông, những bài giảng của Philip Kapleau đã cuốn hút đông đảo những người đến tham dự.

Và bằng chứng cho những thành công của bài giảng ấy là những dòng người ngày càng đông đúc hơn đổ về trung tâm Thiền Rochester mà Philip Kapleau xây dựng.

Vào năm 1968, một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiệu rụi tất cả trung tâmthiền sư Philip Kapleau dày công xây dựng. Trên đống hoang tàn đổ nát, Philip Kapleau vẫn không nản chí. Ông quyết định sẽ xây dựng lại tất cả. Và nhờ sự nỗ lực của bản thân cũng như các đệ tử, Philip Kapleau không chỉ xây dựng lại mà còn mở rộng trung tâm thiền của mình.

Các khoa tu Thiền vẫn tiếp tục đón học sinh, các buổi lễ vẫn được thực hiện theo đúng truyền thống của Thiền tông. Và mặc dù một số nghi lễ truyền thống đã được điều chỉnh cho phù hợp với thời đại và nền văn hóa Mỹ, vốn khác xa với những nền văn hóa phương Đông, song thiền sư Philip Kapleau cho đến tận cuối đời vẫn cố gắng để giữ gìn tinh thần Thiền tông mà các đại sư Harad và Yasutani đã từng truyền dạy.

Ở tuổi 92, vị thiền sư lừng danh của thế giới Tây phương cảm thấy cơ thể mình không còn được như trước nữa. Mặc dù được các bác sĩ chăm sóc và cứu chữa, song thiền sư Philip Kapleau vẫn biết rằng mình không thể qua khỏi được. Vào 6/5/2004, thiền sư Philip Kapleau qua đời một cách nhẹ nhàng thanh thản ngay tại sân sau của Trung tâm Thiền Rochester ông dày công xây dựng trong vòng tay của những đệ tử và bạn bè.

 

Bằng Hư

back to top page
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24553)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13802)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13201)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22131)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19111)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10026)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11939)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13063)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15238)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10562)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21881)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10159)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9867)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9766)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10208)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17865)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13227)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25239)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34736)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26807)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19102)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9032)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13114)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9040)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9480)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9170)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11826)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18563)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8811)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10699)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10983)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28028)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17901)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14427)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16381)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13223)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15590)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14723)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7617)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17115)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8415)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30792)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant