Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Bồ Đề Đạt MaGiá Trị Siêu Việt Của Nền Thiền Học Việt Nam

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 8261)
1. Bồ Đề Đạt Ma Và Giá Trị Siêu Việt Của Nền Thiền Học Việt Nam
thiensututuonggiacngo

Bồ Đề Đạt MaGiá Trị Siêu Việt
Của Nền Thiền Học Việt Nam

 Khi đề cập đến Thiền Tông người ta hay liên tưởng đến Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) người đã mang sứ mệnh cao cả truyền trao cho con người. Cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma tựa như ánh sáng rực rỡ quét sạch bóng đêm phủ xuống cuộc đời chớp nhoáng như điện xẹt và phong thái lạ lùng quái đản đó đưa tên tuổi của người đi vào huyền thoại. Cho đến bây giờ hình ảnh và âm vang vô tận của những lời thuyết pháp vẫn còn chấn động cả thiền môn, rung chuyển trong tận cùng tâm thức, hình bóng của người đã ngả dài trong suốt lịch sử nhân loại, vươn lên tìm một sinh lộ cho sự trở về uyên nguyên giác ngộ, không nhất thiếtgiới hạnphương vị nào cho sự trở về ấy.

 Chính những huyền thoại đã tạo nên con người vốn quái đản của Bồ Đề Đạt Ma lại càng quái đản và lạ lùng hơn, những huyền thoại đó đưa Bồ Đề Đạt Ma trở thành một kẻ phi thường nhất trong tất cả những kẻ phi thường. Những huyền thoại này như chiếc dép cỏ mà Bồ Đề Đạt Ma từng hùng dũng xách nó vượt suối băng ngàn phi hành trên ngọn thông lãnh, sự ngạo nghễ và những trận cười đinh tai, nhức óc rung chuyển cả núi đồi chập chùng, những âm vang đó vẫn còn phảng phất vang vọng đâu đây trong mỗi con người, trong mỗi thời đại theo sự chuyển vần của thời gian, không gian vô tận.

 Hình ảnh của Bồ Đề Đạt Ma có phải là một nhân vật lịch sử hay một nhân vật huyền thoại do đời sau ngụy tạo và dựng lên? Có hai nhóm rõ rệt trong việc truy tìm, nghiên cứu tư liệu về cuộc đời của nhân vật hoang đường này. Nhóm thứ nhất, những nhà học giả như P.Pelliot, Conze v.v… đưa ra nhiều tư liệu nghi ngờ về lịch sử Bồ Đề Đạt Ma, họ cho đó là cách gây uy tín cho việc hình thành phát triển của Thiền Tông – bằng cách ngụy tạo ra dòng tổ bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

 Nhóm thứ hai học giả Prabodh Chandra Bagchi, Hồ Thích v.v… lại cho rằng Bồ Đề Đạt Ma có mặt ở Trung Hoa khoảng 420 hay 486. Theo tài liệu viết vào khoảng 547 in trong Tripitaka do giáo sư Takakusu xuất bản có nói gặp một vị sư tên Bodhidharma trong một ngôi chùa ở Loyang.

 Tất cả những dữ kiện về lịch sử không hẳn là một chứng cớ để chúng ta có thể tin tưởng được, hãy trả tất cả những nghi vấn về lịch sử cho những nhà khảo cổ. Với chúng ta điều quan trọng sự hiện hữu của Bồ Đề Đạt Ma dù huyền thoại hay không huyền thoại có giúp được gì trong hành trình đi đến giác ngộ hay không? Và cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma đã ảnh hưởng như thế nào trong tư tưởng của nhân loại?Những câu hỏi chúng ta đã đặt ra cũng chỉ là câu hỏi để trả lời và cũng để hỏi với chính ta.

 Có những lúc ngôn ngữ không thể diễn tả trọn vẹn được ý tưởng thâm sâucon người cần phải nói. Tự nó vốn đã tuyệt lộ khi chính nó đã không lý giải được cho nó, ngôn ngữ vẫn có đường cùng của nó, nên đó chỉ là một phương tiện chuyên chở cái bóng dáng mờ mờ của tư tưởng và nhiều khi đã tạo nên những rắc rốingộ nhận đáng tiếc. Và trên hết nó đã không chuyên chở được sự thâm sâu, toàn triệt trong tận cùng của tâm thức.Chỉ có sự cảm nhận trong vô ngôn cửa miệng đóng mốc mới hiển lộ nên. Sự yên lặng của con người không có nghĩa là không có ngôn từ để diễn tả mà phải hiểu rằng chính ngôn từ đã không lý giải được sự cảm nhận sâu xa ấy.

 Trên phương diện bình thườngngôn ngữ đã phải dừng lại, huống gì trên phương diện vượt thoát bùng vỡ của giác ngộ hay lập nguyện dấn thân ngôn ngữ càng bế tắc.Hễ mở miệng ra là bị kẹt và hễ mở miệng ra là rơi vào đối đãi, chấp trước ngay, vì thế các vị Thiền Sư đã từng dạy “Để miệng, đóng mốc” Và đó chỉ là quá trình để chuẩn bị nhìn ngắm về đối tượng ở góc cạnh phê phán. Con người vốn đã không chủ động được tâm thức của mình, bị sai sử và tác động do những phân hóa, đố kỵ và động cơ chính là không sáng suốt, nên hầu hết những quan niệm đều đồng nghĩa với sự sai sử, vì thế những phê phán nhận định dễ trở thành sản phẩm phi lý của trí thức ô nhiễm.

 Và không khéo nó sẽ trở thành công cụ đày đọa, dày xéo chính kẻ đã và đang xử dụng nó như một quyền năngcon người đang phải đối diện, ghê tởm, lắc đầu.

 Vì vậy những luận cứ về một con người và nhất là một con người giác ngộ phải chăng ngôn ngữ đã phải cúi đầu?

 Huyền thoại về Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là huyền thoại và sự ca ngợi về Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là ca ngợi, tất cả những điều ấy không đủ để dệt nên một con người tuyệt diệu như Bồ Đề Đạt Ma.

 Một con người được mệnh xưng là kẻ phi thường trong lịch sử cổ kim của nhân loại, một kẻ đã đi trong cô đơn mang cả một tâm hồn nghệ sỹ và đã tung những chưởng lực mà cả triều đình Lương Võ Đế khiếp vía bay hồn, không tài nào hiểu được và cảm nhận lấy một chữ thâm hậu đó.

 - Lương Võ Đế hỏi: Từ ngày tôi làm vua đến nay lập nhiều chùa, in kinh, độ tăng rất nhiều không thể kể hết, như vậy có được công đức không?

 - Bồ Đề Đạt Ma đáp: Không có công đức gì cả.

 - Vua hỏi: Tại sao không?

 - Công đức ấy chỉ được tiểu quả ở cõi nhơn thiên mà thôi, vì còn thuộc nhơn hữu lậu, tuy có mà không thực.

 - Làm thế nào mới gọi là chân công đức?

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

 - Trí thanh tịnh, thể vốn vắng lặng nhiệm mầu, công đức như vậy không thể lấy thế pháp mà cầu được.

 Vua hỏi: Thánh Đế đệ nhất nghĩa là gì?

 Bồ Đề Đạt Ma: Trống rỗng, không gì gọi là Thánh (Quách nhiên vô thánh).

 Vua hỏi: Vậy chứ ai đang đối diện trước mặt trẫm đây?

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

 - Không biết (Bất thức)

 Lương Võ Đế đã không vứt bỏ những gì do chính mình tạo, nên đã không trực nhận được những gì Bồ Đề Đạt Ma đáp, lời nói ấy quả như một chưởng lực siêu phàm làm cho Lương Võ Đế chới với không biết phải bám vào đâu. Và nếu Võ Đế cảm nhận đi chăng nữa thì sự cảm nhận đó vẫn chưa là dấu hiệu của một cảm thông tương quan, có thể nói đó chỉ là một thoại ngữ và họ Lương cần phải tốn cả tâm huyết mới hoàn thành được. Nó tựa như dòng sông trong xanh sâu thăm thẳm công năng của nó có thể cuốn phăng đi tất cả cặn bã của cuộc đời và ngược lại làm cho kẻ đứng ngắm hoảng kinh, dòng tâm của Ngài sâu hun hút không một lối đi vào nếu, không bằng vào cửa ngõ đi là vào cõi chết để biến dạng thành một con người hoàn toàn vượt thoát ra khỏi tử sinh, và Lương Võ Đế là một con người đã không muốn chết theo nghĩa đó, như vậy dĩ nhiên họ Võ đã không tìm thấy sinh lộ cho tiến trình giác ngộ ấy nơi Ngài.

 Bồ Đề Đạt Ma lặng lẽ rời bỏ triều đình, Ngài đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách, trầm hùng chín năm nhìn vách đá yên lặng không nói một lời. Sự yên lặng ấy như là sự khinh bỉ cuộc đời đã không một ai có thể hiểu nổi con người của Bồ Đề Đạt Ma, và sự yên lặng ấy cũng là cách trắc nghiệm sự đi vào của kẻ khác bằng cách chấp nhận sự yên lặng của yên lặng và chờ đợi sự yên lặng để bùng vỡ. Và yên lặng ấy đã bùng vỡ khi Huệ Khả tìm đến trong một đêm mưa tuyết phủ đầy cả mặt đất, Huệ Khả đứng đó với tâm nguyện chờ đợi cánh cửa yên lặng chợt mở thì sẽ xông vào quỳ xuống đảnh lễ và dâng lên cả một sự cầu mong.

 Có lẽ lúc đó Bồ Đề Đạt Ma thừa hiểu đã đến lúc không yên lặng.Tuy nhiên Ngài lại thích kéo dài sự yên lặng ấy càng lâu thì càng có công năng và biết đâu sẽ tuyệt diệu hơn.Và rồi Ngài đã đạt được như ý.

 - Nhà ngươi mong cầu gì mà đứng mãi trong tuyết như thế?

 Huệ Khả bạch: “Con đến để mong cầu giáo pháp vô thượng xin Ngài dũ lòng từ bi ban bố cho.”

 Bồ Đề Đạt Ma bảo: “Giáo lý vô thượng của Phật khó có thể thành tựu ngay, phải trải qua một thời gian dài cần khổ, nhẫn những việc khó nhẫn, làm những việc khó làm. Tâm trí người thấp kém, lòng khinh mạn thì làm sao thành Phật được, chỉ luống công nhọc sức mà thôi.”

 Huệ Khả một lòng cầu đạo, quên cả thân mạng của mình nên dùng dao chặt đứt cánh tay để tỏ lòng thành.

 “Tâm con chưa an xin thầy an cho.”

 Bồ Đề Đạt Ma nói: “Đem tâm ngươi ra đây ta an cho.”

 Huệ Khả bạch sau một phút lưỡng lự:

 “Con tìm mãi nhiều năm mà không thấy.”

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó”

I. THEN CHỐT QUAN TRỌNG CỦA THIỀN 

 Yếu chỉ của Thiền được qui tụ trong 4 câu:

 Giáo ngoại biệt truyền
 Bất lập văn tự
 Trực chỉ nhân tâm
 Kiến tánh thành Phật

Tạm dịch:

 Truyền riêng ngoài giáo
 Chẳng lập văn tự
 Chỉ thẳng tâm người
 Thấy tánh thành Phật

 Tất cả sự quyết định cho sự nghiệp giải thoát đều bắt nguồn từ Tâm, Tâm có thể là một chủ lực mạnh nhất trong việc đưa chính con người ấy đạt được an lạc, và cũng chính Tâm biến thành công cụ đạp đổ con người rơi xuống vũng sâu của tử sinh. Những thiền sư đã xử dụng phương pháp “Dĩ tâm truyền tâm” đẩy thẳng ánh sáng giác ngộ đi qua kẻ đối diện. Dĩ nhiên miếng đất tâm của người đối diện ấy đã được cày bừa kỹ lưỡng và trải qua mọi nhân tố để cho hạt giống được nẩy mầm một khi ánh sáng mặt trời sưởi ấm nó. Nó không nằm trong kiến giải, so đo tính toán được nữa.

 Bởi lẽ những kiến giải chỉ là cách đo lường và tách xa giác ngộ hơn. Tâm ấy tựa như một luồng điện đi qua và ánh sáng bùng vỡ ngay, nó không còn nằm trong trạng thái chờ đợi để ấn nút xuống, nút ấy phải được mở sẵn chỉ chờ luồng điện đi qua là mọi tối tăm nơi tâm vén mở – hiển bày cả càn khôn và cả một vũ trụ tinh nguyên mà mấy mươi năm trời hành giả đã phải lận đận, bương chải và tìm phương vượt thoát.

 Bất lập văn tự: Không có nghĩa là vất bỏ văn tự nếu áp dụng phương cáchvăn tải đạo” thì không dính mắc nào trong chính ngôn từ đó. Con người luôn thích lý luận và căn cứ nơi ngôn từ để phán quyết. Điều đó không hẳn và thực sự đã trói buộc rơi vào làm kiếp con mọt đọc sách. Phải xoay những tư liệu ấy quán chiếu thẳng vào thể tánh mới thấy được đàng sau những ngôn từ đó hiển lộ những gì mà cổ đức đã trao truyền lại.

 Văn tự vẫn là văn tự và không giúp được gì thật sự nếu con người không vứt nó vào hố thẳm, phải tiêu hóa ngay khi đã đọc một cách tuyệt diệu.Nó chỉ là tiến trình của kẻ khác và cũng chỉ là cánh cửa để người đọc biết dấu tìm vào.Và trên hết đó cũng chỉ là của kẻ khác. Hành trình đi tới để vào căn nhà uyên nguyên nhất định không còn mở sách ra để tìm cách đi vào. Bởi lẽ phải vứt bỏ tất cả ngay cả cái cần phải vứt đi cũng chưa chắc đi vào được, một ý niệm còn hưng khởi theo chiều hướng tôi, sẽ, đang, chuẩn bị vứt còn ngự trị, thì còn, sẽ, phải trôi lăn. Những gì được kể như vắng lặng, tròn đầy trong đó vẫn còn một chút vi tế thì hành giả phải bật tung ra khỏi đỉnh cao và rơi vào hố thẳm ngay.

 Buông xả tất cả ngay cái buông xả đó, và buông xả không có nghĩa là không nắm bắt vì buông xả được hình thành cũng do tương quan đối đãi với nắm bắt mà lập, nên buông xả cũng có nghĩa là nắm bắt nên mới buông mà càng không có nghĩa là xả hết. Thiền không khéo trở nên phức tạpmâu thuẫn chính nó. Tuy nhiên Thiền đã đạp tung và vượt lên trên tất cả những gì phức tạp nhất và mâu thuẫn cùng cực nhất. Nó cởi tung tất cả những triền phược trói buộccon người tạo nên. Thiền là một cái gì tươi mát không một ngôn từ nào có thể diễn tả được cái yếu nghĩa của nó như đói thì ăn cơm, khát thì uống nước. Thiền là phải hành hoạt, uyển chuyển, linh động tươi mát ngay trong cuộc sống thường nhật – Trong tất cả mọi động tác như: gánh nước, bửa củi, ăn uống làm việc v.v… đều phải hạ thủ công phu kiểm chứng nội tâm trong từng niệm niệm tương tục. Không phải lúc ngồi bất động trên giường thiền rơi vào trạng thái chết cứng lặng thinh (theo nghĩa gỗ đá) mà có thể đạt được yếu chỉ của Thiền. Cần phải dụng công trong mọi chiều hướng.Không một ai có thể cho chúng ta một ít khái niệm về Thiền và nếu có cho đó cũng chỉ là diệu dụng tùy nghi chứ không hẳn là Thiền.Thiền là vậy đó được bao phủ trong mâu thuẫn nhưng, không một mâu thuẫn nào có thể trói buộc được Thiền – và chính mâu thuẫn cũng có thể là Thiền.

 Chủ trương của Thiền chỉ thẳng không quanh co, trực nhận ngay.Một khi thấy được bản lai diện mục mới có thể thành Phật.

II. AI LÀ VỊ TỔ SƯ THIỀN TÔNG VIỆT NAM?

 Thiền vốn không phân biệt, thấp cao, cung kính hay không, theo trạng huống thường tình – ngay cả vị Tổ Sư tuyệt diệu như Bồ Đề Đạt Ma mà các vị Thiền Sư thường gọi “Bích Nhãn Hồ” nghĩa là “Tên Rợ mắt xanh” dù dưới bất cứ một danh xưng có vẻ phạm thượng đi nữa thì Bồ Đề Đạt Ma cũng là ngài không vì thế mà tổn thương hay hoen ố được. Và đó cũng chính là sự độc đáo của những Thiền Sư biểu lộ cả một sự kính thành, quy ngưỡng nhất.Hình tượng của Bồ Đề Đạt Ma trông rất dữ tợn, mắt luôn trợn trắng, mày quặm và râu phủ cả mặt.Nhưng không một ai lại không thích chiêm ngưỡng quy phục sự dữ tợn đó.Phải chăng bóng dáng ấy đã ẩn chứa bên trong cả một chân trời huyền nhiệm.

 Riêng Việt Nam theo Thuyền Uyển Tập Anh ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là vị Tổ Sư đầu tiên mang thiền đến Việt Nam. Ngài đến vào năm 580 đời Hậu Lý Nam Đế trú ở chùa Pháp Vân. Ngài vốn là người Nam Thiên Trúc đến Trung Hoa vào năm 574, gặp nạn Võ Đế nhà Bắc Chu tàn phá Phật Giáo đến Hà Nam ngài gặp Tam Tổ Tăng Xán và được truyền Tâm ấn dạy ngài đi về phương nam hóa đạo Ngài là dòng thiền thứ nhất của Việt Nam và là sơ tổ. Dù vậy những ngôi chùa ở Việt Nam thường tôn kính hình ảnh của Tổ Sư Thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma?Phải chăng Bồ Đề Đạt Ma tuyệt diệu hơn ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi?Và phải chăng người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, lễ nghi của người Tàu? Lý do này có lẽ tương đối đúng hơn vì thế ngay cả những ngôi chùa và ngay cả những kinh văn trì tụng cũng là chữ Tàu. Vì vậy đạo Phật khó hiểu lại càng khó hiểu hơn.Chưa có một cuộc cách mạng toàn triệt nào để thay đổi lại sự lệ thuộc một cách vô lý này, dù điều này đáng được thực hiện một cách triệt để.Đạo Phật Việt Nam vốn là một tôn giáo lớn tiêu biểu cho đặc thù văn hóa dân tộc, nhưng đâu đó vẫn còn phảng phất một chút gì của ngoại lai. Đối với chúng ta vị Tổ Sư nào cũng đáng kính cả dù đó là Tổ Sư của Trung Hoa hay Việt Nam. Tuy nhiên trên phương diện duy trì bản chất độc đáo của một dân tộc điều ấy phải được phát huy truyền thừa tiêu biểu cái mà gọi là Dân Tộc. Hầu hết chúng ta phó mặc theo kiểu “xưa bày nay bắt chước”. Làm thế nào tất cả những ngôi chùa trở thành một tiền đồn phát huy và bảo tồn Văn Hóa? Những tăng sĩ trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa như vậy chúng ta mới có thể tự hào sự có mặt Đạo PhậtViệt Nam là một biểu trưng sáng ngời nhất trong lĩnh vực Văn Hóa Nghệ Thuật. Dù rằng Thiền được kể như một nghệ thuật tuyệt diệu nhất trong việc thấy tánh thành Phật (kiến tánh) một nghệ thuật đánh phá nội tâmhoán chuyển từ mê sang ngộ mà không gây một khủng hoảng trầm trọng nào. Hành giả hướng tâm của mình đi theo dòng nước không bao giờ có ý định phong tỏa ngăn chận dòng nước vì như thế nước sẽ vỡ tung bờ, chỉ theo đó biết nước sẽ đến đâu những ngõ ngách nào nước ở ngoài chảy vào v.v… đòi hỏi hành giả nếu không có một nghệ thuật cao khó có thể duy trì được sự tĩnh lặng trong chính cái luân lưu mà không vọng động. Một nghệ thuật tinh vi và chỉ có những nhà nghệ thuật phi thường mới có thể tìm thấy. Một đóa hoa đẹp không có nghĩa là đóa hoa ấy đẹp với bóng dáng ở ngoài, sự hoàn hảo của cái đẹp phải kể đến hương vị ngọt ngào tỏa ra từ đóa hoa ấy.Phải có một cái nhìn thoát ra khỏi nhãn quan thường tình thì vẻ đẹp mới hiển lộ một cách toàn diện vượt thoát, một nghệ thuật điêu luyện phải kể như phi nghệ thuật mà là nghệ thuật, vượt trên tất cả những gì gọi là nghệ thuật.

 Ngoài dòng Thiền của Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi còn một dòng thiền đến Việt Nam nữa, đó là Thiền Phái Vô Ngôn Thông, khoảng thế kỷ thứ 9, ngài đến Việt Nam vào năm 820 trú ở chùa kiến sơ, Bắc Ninh đắc pháp với ngài Bách Trượng Thiền Sư bên Tàu. Sở dĩ gọi Ngài là Vô Ngôn Thông vì ngài vốn ít nói dù rằng thông hiểu tất cả mọi lý sự.Sự yên lặng là một dấu hiệu cảm thông trong tất cả mọi tương quan trong cuộc đời.Yên lặng không có nghĩa là không biết mà phải hiểu rằng không việc gì là không rõ.Mặc nhiên trong trạng thái tuyệt diệu của sự vắng lặng và yên lặng chỉ là động tác xuất phát từ “sự yên lặng nơi tâm thức.Thiền Sư Vô Ngôn Thông được người đời tôn xưng với danh hiệu như thế hẳn chắc Ngài phải là nhân vật có một phong thái khó hiểu. Mà thật có gì để phải hiểu khi chính con người đã không có được một phút giây nào dừng lại để cho sự yên lặng ngự trị trong tâm. Đó là cách khuyên nhủ người đời bằng sự yên lặng sống động nhất. Nhiều lúc cả trăm ngàn câu trả lời tuy nhiên nhiều lúc gây ngộ nhận cho kẻ hỏi và sự trả lời này không bằng một nụ cười tươi mát, chừng đó cũng đủ cho kẻ đối diện thức tỉnh, càng đặt vấn đề thì càng rơi vào khủng hoảng khúc mắc. Không một sự trả lời nào của kẻ khác làm cho ta thỏa mãn, nếu chúng ta không tự hỏi và trả lời cho chính mình.

III. THIỀN CÔNG ÁN

 Công án là lối hạ thủ độc đáo mà thiền sư đã dồn Thiền sinh rơi vào thế bí nơi chân tường phải đánh phá, tác động, gõ một cách liên tục vào nội tâm mới mong bùng vỡ lên được, những lúc căng thẳng đầu óc như vỡ tung ra từng mảnh mới tìm thấy được chút ánh sáng len lỏi vào.

 Công án đầu tiên là mẫu đối thoại giữa Bồ Đề Đạt MaLương Võ Đế “Rỗng suốt không có thánh gì hết” đã trở thành một công án độc đáo nhất trong lịch sử Thiền Tông. Tuy nhiên mãi đến nhà Tống công án mới trở nên thịnh hành thường dụng trong tất cả những tra vấn về Thiền và trở thành cửa ngỏ then chốt đi vào Thiền. Trong Thiền Quan Sách Tấn của Chu Hoằng và Ngữ Lục của Đại Huệ đời Tống có ghi lại nhiều công án.

 Khi một Thiền Sư muốn trắc nghiệm kẻ đối diện bằng những câu hỏi hắc búa, quái lạ nhiều khi trái ngược mâu thuẫn, nghịch lý nhưng tất cả những khúc mắc ấy mới trở thành diệu dụng của Thiền. Những nghịch cảnh theo quan niệm của con người thì đó là nghịch cảnh, nhưng với công năng của Thiền là phá tan và san bằng tất cả những gì chận đứng lại. Chúng ta đọc Phó đại sỹ để thấy cái phi lý và cũng là có lý của Thiền.

 Tay không nắm cán mai
 Đi bộ lưng trâu ngồi
 Theo cầu qua bến nước
 Cầu trôi nước chẳng trôi

 Những gì phi lý nhất lại là có lý nhất, cũng có thể những gì có lý lại là phi lý trong Thiền thuật ngữ nầy, tràn ngập như nước đã đầy ly nhưng vẫn cứ rót tràn mãi ra mới thôi. “Lông rùa rừng thỏ”“Hoa không đỏ liễu không xanh” Thiền công án không phải là một lâu đài kỳ bí khiến cho kẻ đứng ngắm khởi lên một sự nghi ngờ, hoang mang. Với Thiền không có hoang mang mà là đi thẳng không quanh co uốn nắn. Nếu như vậy sẽ bị đạp tung ra khỏi cửa thiền và bị phất trần đánh tới tấp. Chưa kịp mở miệng mà rơi vào trạng thái so đo thì bị ngay tiếng hét đinh tai nhức óc của Lâm Tế Nghĩa Huyền gây chấn động cả thần kinh hệ rồi. Lối xảo thuật diệu dụng này nhằm để phát huy và phục hồi nguyên ủy mà hành giả vốn đã lẩn quẩn trong sự mê ngộ – ngộ là ngộ tức khắc không chần chờ so đo tính kỹ và hễ không ngộ là không chứ không có kiểu mở miệng để rơi vào ngõ bí không lối thoát. Thiền là một thực thể linh động trong mọi chiều hướng ngập tràn và làm hưng thịnh những gì vọng động. Và chính những linh động thực tiễn ấy mới hé mở cho sự giác ngộ bùng lên, linh động một cách nhịp nhàng ăn khớp với tâm thức giác ngộ của Thiền Sư hòa đồng và tác động vào chính dòng tâm thức của Thiền Sinh. Và chỉ có sự khơi mở đúng lúc thì ngọn đuốc mới rực lên ánh sáng và bóng đêm bị quét sạch ngay tức khắc, không còn cơ may hưng khởi được nữa một khi ánh sáng này ngự.

 Thiền Sư Đức Sơn đã từng xử dụng cây trượng mỗi khi hỏi đồ chúng:

 “Nói được ba chục hèo”

 “Nói không được ba chục hèo”

 Chân lý vốn đã không nằm trong thế đối đãi của nhị nguyên lý hễ còn nói được và không được thì phải lãnh đủ ba chục hèo.Thiền Sư Đức Sơn chỉ đưa ra cách nói được và nói không được nghĩa là phải mở miệng chứ ngài đâu bảo nếu yên lặng hành động cũng ba chục hèo đâu?

 Và cũng một lần Nam Tuyền nắm lấy con mèo dơ lên cao bảo: “Nói được thì mèo sống, nói không được ta giết chết con mèo” Tăng chúng không ai đáp được và Nam Tuyền giết chết con mèo.

 Khi Triệu Châu trở về Nam Tuyền thuật lại sự việc Châu bèn cởi chiếc giầy cỏ đội lên đầu rồi ung dung ra đi. Nam Tuyền nói: “Tiếc thay không có Triệu Châu ở nhà để cứu mạng con mèo”.Hành động của Triệu Châu chỉ có Nam Tuyền mới cảm thông được. Và chỉ có Triệu Châu mới có thể cứu được con mèo lúc ấy.

 Thiền phải kể đến tiếng hét của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Lâm Tế xử dụng nó như một ngón tuyệt kỷ, kẻ nào bị phải đinh tai nhức óc ngay. Những tuyệt kỷ này đã từng gây chấn động trong Thiền Môn cho đến bây giờ tiếng hét ấy vẫn còn đeo đuổi.

IV. NHỮNG THIỀN SƯ DẤN THÂN ĐI VÀO CUỘC ĐỜI

 Thiền lưu truyền và cất giữ trong nhân gian một cách lâu đời và bền bỉ nhất khi thiền đã tách rời khỏi những hình thức khuynh hướng quyền thế.Thiền phải là một sự phổ cập đa dạng trong mọi lãnh vực và là nguyên tố cơ bản trong mọi tầng lớp. Thiền Việt Nam dung hòatìm thấy sự giác ngộ ngay trong cuộc đời. Ngoài cuộc đời này ra sẽ không có giác ngộ, quên mình để phụng sự cho kẻ khác đó là lý tưởng dấn thân của Phật Giáo. Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã lưu lại những vị Thiền Sư đi vào cuộc đời như Thiền Sư Định Không (729-808) La Quý An (851-936) Khuông Việt (931-1011) Pháp Thuận (915-991) và Vạn Hạnh (mất 1025) nổi bật Thiền Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (dòng Vô Ngôn Thông) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm vị Tăng Thống đầu tiên của Việt Nam. Và điểm nổi bật nhất là Thiền Sư Vạn Hạnh với sự nghiệp xây dựng nhà Lý mà cho đến bây giờ công nghiệp ấy hãy còn bàng bạc trong nhân gian.

 Một hành động dấn thân khác nữa đó là Thiền Sư Trần Nhân Tông dòng Vô Ngôn Thông ngài đổi thành danh hiệu khác đó là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Là một vị thượng hoàng nhưng ông từ bỏ tất cả để làm một sơn tăng tu theo hạnh đầu đà. Ông đã chuẩn bị đi tu bằng cách tập sự xuất gia nhiều năm khi còn là một ông vua. Ngài một mình chống tích trượng đi du hóa khắp nơi khuyên dân chúng bỏ ác làm lành, tạo tình liên bang với Chiêm Thành ông đã gả con gái Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân để duy trì nền hòa bình giữa hai dân tộc.

 Hình ảnh của một Thiền Sư khác là “Chí Thành Thiền Sư, con của Hộ Quốc Công Nguyễn Công Thành sinh năm 1861 tại Quảng Nam”.Ông tham gia phong trào văn thân khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông vào tu ở chùa Giác Viên Chợ Lớn, ba năm tròn lo việc công quả: gánh nước, bửa củi, giã gạo. Sau đó ông nhập thất và tịnh khẩu trong ba năm. Năm 1892, ông đi cứu trợ bão lụt tại Gò Công và năm 1895 ông lại đi cứu trợ bão lụt ở Châu Đốc. Một mình ông độc suất cứu vớt được hơn 500 người đem về chùa nuôi cho đến khi nước rút. Ông thu thập tẫm liệm, mai táng không biết bao nhiêu là thi hài không thừa nhận. Ông lại còn bị mật thám Pháp bắt giam gần một năm trời vì những hoạt động xã hội trong “Tương Lai Thiền Học” của Nhất Hạnh trang 31.

 Chính những hạnh nguyện dấn thân nầy mà thiền len lõi trong quần chúng, có những lúc không nhất thiết vị Thiền Sư phải đăng đàn thuyết pháp mà ngay hành động của quý Ngài trở thành bài pháp không lời và chỉ có những bài pháp sống động này mới tồn tại lâu bền và hiệu quả thâm sâu nhất. Đi vào cuộc đời để rồi xoa dịuchuyển hóa những thống khổ đang bao phủ con người, Đạo Phật vốn đã không tách rời ra khỏi những đau khổ mà hình thành và càng không có nghĩa đạt được giải thoát ra ngoài cuộc đời nầy ra. Dấn thân nhưng không bị cuộc đời vùi lấp hay làm hoen ố được.Phải duy trì liên tục lý tưởng phụng sự kẻ khác trong cương vị xuất thế của mình. Các Thiền Sư đã trở về ung dung thanh thoát sau khi đã hoàn thành đại nguyện độ sanh.

V. CHẤN CHỈNH LẠI NỀN THIỀN HỌC VIỆT NAM

 Từ thế kỷ thứ 14 trở đi nền Thiền Học Việt Nam bị Mật TôngTịnh Độ lấn áp. Hai buổi công phu ở chùa đều ảnh hưởng Mật và Tịnh. Dù rằng Thiền được bao phủ và tác động lên trên tất cả Mật và Tịnh bởi lẽ hành giả phải ngưng tất cả những vọng động để tìm sự thanh thoát nơi tâm hồn, không để tâm tư dong ruổi theo trần thế, kiểm soát nội tâm bằng ánh sáng giác ngộ. Chiếu soi liên tục trong mọi tình huống. Nếu niệm Phật trăm ngàn câu mà tâm không niệm có ích gì đâu trên lối về giác ngộ, chỉ đạt được chút phước báo ở tiểu quả nhơn thiên. Vẫn còn phải dụng công trên đường tìm về giải thoát.

 Thiền chỉ còn trong sự bàng bạc bao phủ không còn là then chốt trong hai thời công phu ở chùa nữa. Hầu hết các tự việnchúng ta đều xuất phát từ Thiền “Lâm Tế” nhưng điều này đã không được phát huy đúng mức, nên có sự pha trộn giữa Tịnh hoặc Mật. Tịnh độ tông chỉ là sự biến dạng của Thiền nên sự dung hòa khó mà tìm thấy. Với đa số quần chúng hẳn nhiên không như vậy Tịnh và Thiền là hai chứ không phải là một.

 Đạo Phật được truyền vào Việt Nam phần lớn là Thiền Tông, nó đã bám rễ và ảnh hưởng sâu đậm trong quần chúng bằng sự tỉnh thức, kiên nhẫnhy vọng. Nếu tất cả những hành động đều được ngự trị bởi thức tỉnh, sáng suốt hẳn nhiên chúng ta đã không gây khổ đau cho mình và kẻ khác. Con người không có được sự tỉnh thức con người đó trở thành một nguy cơ cho chính họ và cả loài người. Họ có thể xử dụng quyền thế, ưu điểm để lừa dối, và đưa con người đi vào cõi chết không một chút tiếc thương.

 Trong sự khổ đau cùng cực nhất của Dân Tộc hiện tại phải chăng đều xuất phát từ những kẻ không có được một phút giây tỉnh thức nào?Và đã không có được một ý nghĩ về kết quả mà chính họ đang tạo nên. Chỉ khi nào ý thức về con người đang chơi vơi trên hố thẳm may ra họ mới tìm thấy được giá trị của sự tỉnh thức.

 Cần phải phát huy duy trì nền Thiền Học Việt Nam trong mọi chiều hướng mới có thể vơi đi những phiền trược cho con người. Thiền là yếu tố cơ bản nhất trong việc đi thẳng đến giải thoát.Sự giải thoát không nằm trong tương lai mà nó có ngay trong hiện tại nầy. Một khi con người thực sự tĩnh lặng bình an, và kết quả này luôn ngự trị tác động liên tục thì may ra con đường đi đến giải thoát mới hiển lộ. Còn nếu sóng sau dồn sóng trước thì uổng phí cả một đời, sự giải thoát được quyết định ngay trong hiện tại và đó là nền móng xây dựng sự an lành, và một nụ cười bất diệt. Ngoài lãnh vực nầy ra, thiền còn là yếu tố cơ bản trong tất cả những lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, chính trị, dấn thân v.v…

Những hành hoạt thường dụng nếu có sự tỉnh thức, quán chiếu thì không việc gì mà chẳng thành, không gì làm hoen ố được. Lập chí như núi cao, nguyện lực thâm hậu, dụng công trong vi tế thì sá gì những trì trệ ứ đọng. Tâm tư trùm kín cả vũ trụ không một mảy may nào động tới được, vứt bỏ tất cả những gì đối đãi, tham trước. Chỉ còn lại một hạnh nguyện cao cả đi vào cuộc đời để chuyển hóa mọi thống khổ của con người vơi đi, để linh động mang dòng nước thanh lương tưới mát lửa phiền của chúng sanh, để hát những khúc ca chứng đạo truyền giảng cho hữu tình, và để vươn lên chọc thủng màn đen bao phủ cuộc đời.

 Một khi hạnh nguyện hoàn xong phải buông xả tất cả, thong dong tự tại trở về từ nơi khởi điểm. Để không còn thấy điểm xuất phát và nơi đến, thì cuộc đời vẫn là cuộc đời, khổ đau cũng chỉ là khổ đau, hạnh phúc Niết Bàn như cơn lốc, như gió thoảng mây bay. Tất cả chỉ còn lại lối về trước mặt không còn mờ mờ hoang lộ và đàng sau không còn gò núi chập chùng muôn lối.

 Thênh thang trên đoạn đường không dài cũng không ngắn từng bước đi là cả một cung đàn tuyệt diệu, hoa vẫn nở trên đường, lối đi chuyển về đâu !

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1293)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1575)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 2173)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5923)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3707)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4960)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4668)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6895)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18350)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3925)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 3012)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5729)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11367)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9286)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2649)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6882)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3281)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 6009)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 4047)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5595)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18460)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6456)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5895)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3562)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2541)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13836)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5422)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2758)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 4034)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4581)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3972)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2676)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4424)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3372)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4750)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7718)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3479)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3830)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3487)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7731)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12746)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16320)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4588)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52844)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8723)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16185)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4102)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3836)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8732)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4058)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12781)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12631)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17322)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7267)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5948)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7308)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8474)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5385)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6761)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8801)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5479)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6515)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4741)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14240)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5653)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5795)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9996)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8829)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7298)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35243)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5559)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10721)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13196)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7721)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17916)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6663)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19993)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13569)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16355)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 27175)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 29081)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10932)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7672)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7126)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10236)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10269)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8116)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8165)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6924)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10095)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 21004)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24311)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15369)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8258)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18917)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16753)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10984)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7387)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7968)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14389)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant