Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Thiền Sư Hương Hải

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 9446)
9. Thiền Sư Hương Hải
thiensututuonggiacngo

Thiền Sư HƯƠNG HẢI

 

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”


I. NIÊN ĐẠI VÀ CON NGƯỜI CỦA HƯƠNG HẢI

Theo sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Hương Hải người làng Án Độ huyện Chân Phúc tỉnh Nghệ An sinh năm 1627, vốn là người thông minh xuất chúng, lịch lãm về nho học, đỗ Hương Cống (cử nhân) năm 18 tuổi, được chọn vào phủ Chúa Nguyễn. Sau đó cử nhận Tri Phủ huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Vào năm 25 tuổi ông rất hâm mộ đạo Phật, đã từng đàm luận với các vị Thiền Sư Trung Hoa đang hành đạo tại Quảng Trị.


Ba năm sau (1655) ông từ quan đi xuất gia với ngài Viên Cảnh thiền sư, ngài đặt cho pháp danhHuyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải, ngày nay chúng ta thường gọi ngài là Hương Hải. Sau đó ngài ra vân du ở đảo Tiêm Bút La, cảnh trí nơi đây thích hợp cho việc tu trì nên ngài lập am để chuyên tu. Đạo hạnh của ngài cao thâm, quan dân thảy đều ngưỡng mộ. Có lần quan trấn thủ Thuần Quận Công thỉnh ngài về đất liền tụng kinh cầu an cho phu nhân, và cả gia đình quy y theo. Và quan Tổng thái giám Hoa Lệ Hầu cung thỉnh ngài về đất liền lập đàn sám hối, cầu cho hết bịnh mà quan Tổng đã mắc phải. Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu 1691-1752) nghe tiếng bèn cử người ra cung đón, khi ngài về đến nội địa đích thân chúa Nguyễn ra đón tiếp, hỏi thăm, ủy lạo, rồi sau đó lập Thiền Tĩnh Viện ở trên núi Qui Cảnh để ngài ở. Các quan trong triều và đủ mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh đến quy y học đạo rất đông. Thiền Tĩnh Viện trở thành trung tâm truyền bá, phát triển, nổi tiếng ở đàng Trong.
Trong số những người đến tham học có quan Thị Nội Giám Gia Quận Công vốn là người đàng Ngoài, quan nội giám thường gặp gỡ Hương Hải để nghe thuyết pháp, có người dèm pha vu cáo ông cùng Thiền Sư đang âm mưu trốn về Bắc. Chúa Nguyễn hay tin đem việc tra xét nhưng không có bằng cớ để buộc tội. Chúa Nguyễn bèn truyền cho ngài phải vào ở Quảng Nam. Vì sự đối đãi kèm theo nghi kỵ nên Hương Hải quyết chí ra Bắc thật. Năm 1682 Thiền Sư cùng với 50 đồ đề vượt biển ra Bắc đến trấn Nghệ An, thuyền ghé bến ngài đến trình diện ở đồn Trần Lao do Yên Quận Công Trịnh Gia trông coi. Sau đó ông mới tâu về triều Chúa Trịnh cho người đón tất cả về kinh hỏi han mọi việc. Sau đó chúa sai quan Trấn Thủ Sơn Nam lấy đất lập chùa mời ngài trụ trì ở đó.
Những tháng năm bập bềnh sóng gió đã trôi qua, ngài bèn dùng thời gian còn lại trong việc tu tậpnghiên cứu sáng tác, dịch thuật hơn 30 tác phẩm để lại cho đời. Trong số những tác phẩm bị thất lạc chúng ta chưa tìm ra đầy đủ.


Hương Hải Thiền Sư vốn đã uyên thâm về Nho học trước khi đi xuất gia, hầu hết lúc bấy giờ theo đường công danh cử nghiệp bút nghiên phải thông nho mới mong đỗ đạt. Hương Hải quan niệm sự dung hòa giữa Nho giáoPhật giáo có thể bổ túc cho nhau trên phương diện trị an.


“Lên tận nguồn Nho trông bát ngát
Vào sâu biển Pháp thấy mênh mông”
(Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm)


Qua hai câu thơ trên, Hương Hải quả có cái nhìn muốn kết hợp hai tôn giáo lúc bấy giờ, đàng nào cũng có cái mênh mông bát ngát của nó, chúng ta chỉ là kẻ đứng ngắm sự rộng lớn nầy, không thể dùng con mắt mà đo lường được. Trong những tháng ngày an lành tu học, không còn bị hạch hỏi lôi thôi nữa ngài cảm tác bài thơ với sự biết ơn nơi đang ở:


“Sư tử quật trung sư tử
Chiên đàn lâm lý chiên đàn
Nhất thân hữu lại càn khôn khoát
Vạn sự vô ưu nhật nguyệt tường”
Dịch:
Sư tử nằm hang sư tử
Cây trầm mọc trong rừng trầm
Một thân nhờ có càn khôn rộng
Ngày dài tháng rộng đã an tâm.


Đi đâu dù có được tiếp đãi ân cần, quyền cao trọng vọng, thì thỉnh thoảng vẫn nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ làng xóm, nơi đã chôn nhau cắt rún, lớn lên bên khóm trúc, hàng cau, làm sao quên được, sợ rằng nhiều kẻ không hiểu được cái khổ tâm khi phải ra đi, ngài làm mấy câu thơ để chia xẻ với nỗi cô quạnh tha phương của mình:


Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức
Thuận hành nghịch hành thiên mạc trắc
Mãn sơn nhân xướng Chá cô từ * (* điệu hát)
Thác nhận Hồ gia thập bát phách.
Dịch:
“Là thị là phi ai có biết
Rằng xuôi rằng ngược lẽ trời hay
Chá cô khúc ấy ca đầy núi
Tưởng nhạc người Hồ mười tám giây.”


Vào năm 1700 thiền sư Hương Hải rời chùa Trấn Thủ Sơn Nam, về chùa Nguyệt Đường tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nơi đây đông đảo người về quy y học hỏi. Vua Lê Dụ Tôn có lần đón ngài về kinh thuyết pháp và lập đàn cầu tự, vua rất tôn kính quý mến, thường hỏi ngài về phương pháp tu hành.
Năm 1714, chúa Trịnh Căn có vào chùa Nguyệt Đường tham bái, cảm xúc chúa ngự viết bài thơ:


Danh Nam trừng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp
Kinh lâu rờ rỡ diễn chân kinh
Công nhiều nhà có công vô lượng
Thế thuận vây lên thế hữu tình
Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy
Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.


Năm Ất Mùi 1715, sáng ngày 13 tháng 5, sau khi tắm xong thiền sư khoác y, đeo tràng hạt, đội mũ trang nghiêm ngồi kiết già tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Đệ tử đắc pháp của ngài rất đông, có vị được phong chức Tăng Thống.

II. QUAN NIỆM VỀ THIỀN CỦA HƯƠNG HẢI

Tìm đến tư tưởng Hương Hải, một trong những cây đuốc sáng rực trong Thiền Tông ở thế kỷ 17, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu sắc qua lời văn trong sáng, dễ hiểu, Hương Hải không thích lý luận nhiều, nên văn thơ của ngài hầu hết đều mang cốt cách một người dản dị, muốn mọi người ai cũng có thể đọc hiểu và nương theo đó để tu hành, ngài rất ít dùng đến thuật ngữ bí ẩn của Thiền, phần nhiều làm cho kẻ thưởng thức cảm thấy bớt căng thẳngđi vào tư tưởng một cách từ từ, tiệm ngộ chứ không đốn ngộ như những Thiền Sưchúng ta hay bắt gặp. Dĩ nhiên Thiền vẫn có những công năng như nhau trong việc nhắm đến trực giác, dù bằng phương cách nào đều do sự xử dụng của từng thiền sư, có ai dám bảo Thiền của Thần Tú thua Huệ Năng? Bởi vì Thần TúThần Tú, Huệ NăngHuệ Năng, có khác nhau tùy vào lối dụng công của từng vị. Tư tưởng Thiền của Hương Hải phản ảnh được sự tương quan giữa chúng sanh và Phật, mê với ngộ v.v… Bằng vào những liên hệ nầy Hương Hải hé mở cho chúng ta thấy đâu là điều nên thực hiện để đạt được giải thoát, và phương pháp để thành tựu. Trước hết theo Hương Hải phải hoán chuyển cái Tâm vọng của mỗi người để đạt đến Chơn Tâmbí quyết để thành tựu trong việc Giác Ngộ là “Vô Tâm” theo Hương Hải. Tương quan giữa Phật và chúng sanh Thiền Sư diễn tả như sau: “Khi mặt trời lên chiếu sáng thiên hạ, thì hư không, không vì đó mà sáng, khi mặt trời lặn bóng tối bao trùm khắp thiên hạ thì hư không không vì đó mà tối. Sự sáng và sự tối tranh cướp lẫn nhau, còn hư không vẫn lặng lẽ tự nó là nó. Tâm Phậtchúng sanh cũng vậy. Nếu quan niệm Phật là thanh tịnh quang minh, quan niệm chúng sanhdơ bẩn mờ tối, thì có tu qua nhiều kiếp như số cát sông Hằng cũng không đạt được giác ngộ.” Sự sáng và tối hoàn toàn tùy thuộc vào không gian, thời gian, nhưng nếu theo Chơn Tâm tròn đầy thì không phải lúc không có mặt trời là tối; vì lẽ cái biết là tối đó do đâu mà có, nếu cái tối có mà không có cái biết được tối không? Như vậy tối và sáng duyên nhau nhưng cái biết thường còn không mất, nếu có mất thì sao khi sáng lại biết là sáng? Đức Phật đã từng hiển lộ điều này trong kinh Thủ Lăng Nghiêm khi chỉ chơn tâm cho ngài A Nan. Sự hiện diện của Đức Phật như chúng ta đã biết nhằm một mục đích duy nhất mở bày cho chúng sanh đi vào tri kiến giác ngộ. Trước đó chúng ta không hề nhận ra được chân lý này, nhưng trong mỗi con người đều có khả năng thành Phật tiềm ẩn, vì trần lao phiền não che khuất nên không vén mở được cái bổn lai diện mục của mình. Đức Phật có thể làm được điều này mà tôi, ngoài ra ngài không có quyền năng đưa một ai đi đến giải thoát mà chính kẻ ấy không tự mình đi qua quá trình giác ngộ, Phật cũng từ con người bình thường như những chúng sanh khác, ngài hơn chúng ta là biết xử dụng trí tuệ để từ đó đi đến giải thoát. Nếu tất cả chúng ta đều xử dụng đến trí tuệ của mình thì chắc hẳn sẽ được giải thoát như ngài. Huyền Giác trong chứng đạo ca cũng đã cho chúng ta một quan niệm về điều nầy.


“Thoắc giác rồi Như Lai thiền
Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên
Trong mộng lao xao bày sáu nẽo
Tỉnh ra bằn bặt chẳng ba nghìn”

Mê, Ngộ theo Hương Hải cũng vì đối đãi với nhau mà có, duyên với nhau mà lập, nên không thật, nếu tìm cầu chân mà bỏ vọng ắt lạc vào ngàn trùng, vọng che khuất nên Ngộ không mở bày, một khi chân hiển lộ thì vọng tự nó tiêu diệt vì có vọng nên mới có chân. Ngài nói: “Mê và Ngộ dựa vào nhau, Chân và Vọng vì đối đãi với nhau mà có. Nếu tìm Chân bỏ Vọng thì không khác gì người sợ bóng theo hình mà cứ chạy ở ngoài nắng. Nếu biết rõ vọng là chân thì cũng như đi vào nơi rợp tự khắc bóng biến mất.”


Mê và Ngộ cũng tựa như kẻ bộ hành đi trong đêm tối vốn sợ ma, dù không biết ma là gì cả, nhưng khi đi có cảm tưởng đằng sau có ai đi theo, hễ bước nhanh thì nghe tiếng đi nhanh, đi chậm thì nghe tiếng đi cũng chậm, đến khi quýnh lên vụt chạy, nghe tiếng ấy chạy theo, cứ như thế mà cắm đầu cắm cổ chạy mãi đến nơi có đèn sáng, cố lấy bình tĩnh quay đầu nhìn lại thì không trông thấy ai cả. Mê và Ngộ cũng tương tự như thế khi chưa tìm ra được lý lẽ của nó thì thấy có hai thái cực, nhưng thật ra hai là một, mà một là hai, nếu ngộ thì không còn thấy có hai mà tự nó tiêu hủy, hỗ trợ lẫn nhau, còn nếu mê thì muôn kiếp vẫn phải trôi lăn trong vòng sống chết, mịt mù tăm tối.


Ngoài ra Hương Hải còn cho chúng ta thấy rất nhiều về khía cạnh của những tương quan như: thiện ác, tâm cảnh, nhằm cho ta có một ít khái niệm thực tế trong ấy. Tất cả những điều này không ngoài mục đích tạo lại sự quân bình mà cái tâm của ta vốn đã dong ruổi quá nhiều theo trần thế, hay bóp méo sự thật cũng như tạo nên những xung đột một cách phi lý ở nội tại, chấp nhầm những gì mà ta có thể quan niệm đo lường, sờ mó được, hầu như ta duyên theo đó để khởi nên những phân biệt. Bản chất Giác Ngộ là phải vượt ra ngoài những đối đãi, cần phải trở về khám phá trong tận cùng tâm thức, đừng dong ruổi theo ngoại vật, phong tỏa lục căn bằng cách tiếp xúc với trần cảnh nhưng đừng bao giờ bị đắm nhiễm trong ấy.


“Thấy theo sắc mà hết
Nghe theo tiếng mà bay
Trở về là thượng sách
Hôm qua và sáng nay.”
(Nhãn quan tùy sắc tận
Nhĩ thức trục tranh tiêu
Hoàn nguyên đương biệt chỉ
Tạc nhật dữ kim tiêu.)


Ở khía cạnh khác về Tâm và Cảnh, hầu hết chúng ta cứ luôn nắm bắt theo trần cảnh nên bỏ mất cái chân tâm thường hằng của mình, vì trần cảnh vốn sinh diệt không thật, nếu theo đó chỉ làm cho ta đau khổ. Điều quan trọng, buông bỏ thế giới bên ngoài để soi sáng chiếu rọi vào Chơn Tâm, nhưng không có nghĩa bỏ cảnh để về tâm, bởi lẽ cảnh đều do tâm mà hiện, bỏ cảnh tìm tâm là lắp thêm một cái đầu trên một cái đầu, cứ việc làm hiển lộ cái Chân Tâm thì tự nhiên cảnh cũng trở thành chân, đừng có quan niệm là tách rời nó ra hai thể, thì cứ luống công chạy ngược xuôi để tìm chân, mà thực ra ngay chân có vọng, trong vọng có chân. Để tóm tắt tư tưởng của Hương Hải trong những tương quan ở trên điều cần nhất là không trốn chạy hiện hữu. Thiền Sư viết:


“Thân vọng tới gương soi bóng
Bóng với thân vọng giống nhau
Chỉ muốn giữ thân bỏ bóng
Vọng thân vốn có thực đâu ?
Thân kia với bóng đồng nhất
Một không một có được nào ?
Kẻ muốn giữ một bỏ một
Cách xa sự thật biết bao !
Người nào ưa thánh ghét phàm
Sẽ mãi sanh tử phiền não
Phiền não vì tâm mà có
Vô tâm phiền não ở đâu ?
Hễ đừng phân biệt chấp tướng
Đương nhiên chứng được đạo mầu”


Theo Hương Hải, một khi tâm an tịnh đó là Thiền chứ không cần phải tìm cầu đâu xa “Trong đời sống hàng ngày không gì không phải đạo, hễ an tâm thì đó là Thiền”. (Nhật dụng vô phi đạo, Tâm an tức nhị Thiền)

III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA HƯƠNG HẢI

Cuộc đời của Hương Hải đã để lại sự nghiệp trước tác, chú giải, phiên dịch khá nhiều hơn 30 tác phẩm, hầu hết những tác phẩm nầy chưa tìm lại được.
- Giải Pháp Hoa Kinh
- Giải Kim Cương kinh lý nghĩa
- Giải Sa Di giới luật
- Giải Phật Tổ tam kinh
- Giải A Di Đà kinh
- Giải Vô Lượng Thọ kinh
- Giải Địa Tạng kinh
- Giải Tâm kinh đại điển
- Giải tâm kinh ngủ chỉ
- Giải Chân Tâm trực thuyết
- Giải Pháp Bảo Đàn Kinh
- Quán Vô Lượng thọ kinh quốc ngữ
- Phổ khuyến tu hành
- Bảng điều nhất thiên
- Cơ duyên vấn đáp tinh giải
- Sự lý dung thông, thơ.
Để có ý niệm về thơ nôm của ngài, chúng ta đọc một đoạn trong Sự Lý Dung Thông:


“Những thánh hiền nguồn nhân biển quả
Xưa tu hành trí đã rộng cao
Trong nơi ba cõi ra vào
Mười phương tri thức ai vào khá nghi
Nguyện in thanh hải tịnh trì
Thềm lan bóng trúc hề chi viên ngần
Phên dày nước chảy khôn ngăn
Mây mỏi ngoài trần há động non cao
Sự nài bao hang sâu tiếng dội
Đèn hãy dùng chớ nỗi chờ trăng
Đường lên diệu lộ cao thăng
Giải hành hai chữ há rằng làm sai
Tạng Như Lai làu làu thanh tịnh
Nắm hương lòng hằng kính hằng tin
Đòi phen giải thoát tự nhiên
Dụng chân như trí, gương thiền ráng thâu
Lộc dương theo dấu hay đâu
Nê ngưu vào biển rộng sâu khôn tìm
Bao nhiêu chim bay về lạc tổ
Mây che ngoài ngỡ ổ hang xưa
……………
Đạo viên minh ngại chi chân tục
Miễn lòng rồi tri túc thời nên
Năm mươi năm phẩm dưới trên
Luyện Tam muội hỏa chí bền kim cương
Nhân thiên mấy đấng phong quang
Tam hiền thập thánh một đàng cao siêu
Cày mây cuốc nguyệt đã nhiều
Chứng vô thượng sĩ danh tiêu mới nồng.”


Ngoài ra còn có những bài thơ do thầy Thích Trí Hiếu sưu tầm và được đăng tải trong tập san Đuốc Tuệ (số 7 ra ngày 21.1.1936) hai bài thơ của Hương Hải, một bài vịnh cảnh xuân và bài khác tặng quan Trấn Thủ Sơn Tây. Hai bài nầy không thấy chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.


1. “Tam dương khai thái chuyển hồng quân
Cửu thập thiều quang sắc sắc tan
Dạ tỉnh thanh phong chiêu ngọc lộ
Nhật tình thụy khí ái từ vân
Sơn cao lâm thụ hy kỳ mỹ
Bình địa niên hoa phức úc huân
Xứ xứ nghên trường ca vạn thọ
Nhân nhân hòa mục vĩnh thiên xuân”
Và bài thứ 2 đó là:


“Hướng minh quy mệnh sự quân vương
Yết kiến tôn công khánh thọ đường
Tài dụng kinh luân kim đức hạnh
Âm thi lễ nghĩa quý văn chương
Ngoại trừ đạo tặc bình dân ái
Nội dường chinh liêm sĩ tốt cường
Quyền trấn Nam Giao danh tứ hải
Khuông phù quốc chính lạc quần phương.”
Trong khi nhàn hạ Sư thường ngâm hai bài thơ nầy:


1. (Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên
Song triêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền trung cổ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.)


Dịch:
“Dạo qua thành thị nghĩ chùa chiền
Tùy cơ ứng biến lẽ đương nhiên
Trăng dòm cửa mở giường kê sát
Gió thổi thông cười khánh ngủ yên
Lâu đài rực rỡ màu đẹp đẽ
Chuông trống vang rền tiếng diệu huyền
Ba giáo nguyên lai cùng một thể
Xoay vần đâu có lẽ nào thiên.”


2. (Thượng sĩ thường du bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
Liêm khê Trình thị minh cao thức
Tô Tử Hàn Văn khế diệu âm
Vạn tượng sum la cao di hiển
Nhất biểu tạo hóa mật nan tầm
Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.)


Dịch:
“Thượng sĩ thường chơi cảnh tùng lâm
Phong trần không vướng hội thiền tâm
Liêm khê Trình Hiệu người thông suốt
Tô Tử Hàn Văn hiểu diệu âm
Muôn ngàn cảnh vật bày dễ thấy
Tạo hóa một bầu khó truy tầm
Nguồn nho thăm thẳm lên càng rộng
Bể thích trùng trùng xuống lại thâm.”


Qua những ý niệm về thơ của Hương Hải đã biểu lộ phong cách một con người giải thoát. Đồng thời thơ bằng chữ nôm của Hương Hải đã đóng góp thật nhiều cho nền Văn Học nước nhà, nhất là lãnh vực chữ nôm ở thế kỷ thứ 17.

IV. NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA HƯƠNG HẢI

Những bài thơ hay nhất của Hương Hải là lúc vua Lê Dụ Tôn đến tham vấn. Hương Hải không thuyết pháp dài dòng mà chỉ đọc mấy bài thơ, chứa đựng cả tư tưởng thâm sâu mà ngài đã khai quật được từ nội tâm của mình. Hiển lộ nên sự thâm đắc chứng nghiệm tâm linh mà ngài đã phải tốn công để đạt được.
Vua Lê Dụ Tôn hỏi sư rằng: “Trẫm nghe Lão sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để trẫm được liễu ngộ”
Sư tâu: “Xin bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu bốn câu kệ nầy:


Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.


Dịch:
“Hằng ngày quán lại chính nơi mình
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong mộng tìm chi người tri thức
Mặt thầy sẽ thấy trên mặt mình.”


Có lẽ đây là một trong những phương phápHương Hải đã nương vào đó để tựu thành giác ngộ. Kiểm soát nội tâm trong từng phút giây là then chốt quan trọng để có thể mở được cánh cửa tâm linh. Dòng tâm thức vốn phức tạploạn động, hưng khởi theo bản năng dính mắc, nô lệ vào trần cảnh. Khi nhãn quan bắt gặp đối tượng, tâm sẽ theo đó khởi lên những vọng động sai biệt. Chính vì duyên theo trần cảnh nên phải trôi lăn trong vòng sống chết vô tận. Nếu xoay tất cả những công năng ở bên ngoài, trở lại quán chiếu vào tận cùng thể tánh, quật khai nguyên lý giác ngộ trong chính mình, thì may ra thành tựu được sự nghiệp chứng đắc.


Kiểm soát những vọng niệm bằng cách, tỉnh thức trong từng niệm hưng khởi và biết một cách minh mẫn niệm ấy có phù hợp trong hành trình đạt được thức giác hay không? Ý thức một cách thường nghiệm, biết được ngõ ngách xuất hiện của nó, hướng nó đi vào nẽo có thể bùng lên ánh sáng thực ngộ. Đừng bao giờ khởi lên ý niệm tiêu diệt hay ngăn chận, như thế gây nên trạng thái nội chiến, cần nhất là phải xoay chiều, hoán chuyển từ mê sang giác ngộ, hoán chuyển từ vọng sang tịnh, và trong vọng có tịnh và cũng có thể vọng chính là tịnh, hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ chứng nghiệm, thẩm định một cách siêu thể.


Đừng bao giờ nương vào những quan niệm do trí thức xúi dục, dù đó là điều nghe có vẻ phù hợp với trạng huống, nhưng nếu không khéo quan sát cặn kẽ dễ bị lầm lẫn, bởi vì tri thức được hưng khởi còn nằm trong phong tỏa của vô minh. Như giấc mộng huy hoàng đâu đó còn lại nuối tiếc rỗng không, đừng tìm cầu bên ngoài dù đó là ý niệm thiện, nhưng ngoài tâm vốn không có Phật, Phật được hình thành từ trong những khám phá tra vấn ở nội tại.


Bồ Tát Quan Thế Âm thành tựu được giải thoát, cũng nhờ xoay chuyển cái nghe ở bên ngoài, để nghe chính sự hưng động nơi tự tâm, nhờ quán sát nội tâm, soi thấu ngũ uẩnchứng nhập giải thoát. Chưa một ai có thể đạt được giác ngộ mà không đi qua chặng đường quật khởi nội tâm, mọi hỗ trợ nơi trần cảnh không hẳn là yếu tố quan trọng, nếu không lấy cái tâm làm gốc. Hẳn chắc một ngày nào đó bộ mặt nghìn đời xuất hiện, khi đã đi hết con đường khám phá tận cùng ở nội tâm.


Vua Lê Dụ Tôn lại hỏi; “Thế nào là ý của Phật.”
Sư liền đáp:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”


Điều đắc ý nhất của Hương Hải là “vô tâm” – không có nghĩa là thờ ơ, không chú ý. Nhưng ngược lại đây có những công năng siêu việt hơn, không để bất cứ những tư duy, tương quan nào có thể dính mắc, không bị những sai sử của sai biệt, không khởi lên những khuynh hướng đối lập, nhị nguyên. Như một sự rỗng suốt thanh thoát ở trong tâm, chưa một lần khởi lên những phân biệt, tâm, cảnh, chủ thể, khách thể. Đến đi trong cuộc đời, tiếp xúc với trần thế, nhưng không bao giờ đắm nhiễm, ung dung tự tại, làm tất cả nhưng tất cả không làm hề hấn được cái tâm không nầy.


Hình ảnh của con nhạn bay ngang qua dòng nước là một hình ảnh đẹp và nên thơ nhất, nó chứa đựng cả một tư duy nhưng nếu, không nằm ở cung bậc tương ứng thì khó mà bắt gặp cái tuyệt diệu của nó. Nếu không một lần nhìn thật lâu vào dòng nước, những thăm hỏi tra vấn với sự lạnh lùng, thờ ơ, giá buốt và mặc nhiên chấp nhận ở dòng nước, thì khó mà tìm ra được đáp số đúng mức cho dòng tâm. Sự lạnh lùng dung chứa của hư không để cho nhạn tung bay, nhưng có bao giờ tìm được hình hài dấu vết trong bầu trời mênh mông ấy. Dòng nước đã từng yên lặng trong những tháng năm đằng đẵng, đã biết bao nhiêu sự đi qua của muôn loài, khi thấp thoáng, khi in đậm nét, nhưng chỉ đi qua chứ nước không một lần lưu lại bóng.


Đó là bài thơ nổi tiếng độc đáo nhất của ngài, ảnh hưởng của nó vô cùng mãnh liệt, một khi kẻ thưởng thức bắt đúng được cung nhịp, bao nhiêu mơ ước bỗng thành mây khói, chỉ còn lại một hình hài không được dệt nên khung ảnh, bàng bạc mênh mang trong không gian mà không hề lưu lại dấu vết. Nhạn bay thật nhiều trên nền trời xanh biếc, đã bao nhiêu năm trôi qua, nhưng cứ mỗi lần nhìn lên bầu trời chúng ta vẫn chưa hề bắt gặp bóng dáng ấy in trên nền trong xanh. Nếu truy tìm một cách kỹ lưỡng, chỉ thấy đâu đó những áng mây lững lờ vốn đã từng in bóng của cuộc đời trong ấy, nhưng không một lần nào mây cố tình nhận bóng, mà hình như nếu có sự tương phản nào đó, thì do con người truy tìm mà vọng tưởng hưng khởi nên, cho đó là thấy một cách thấp thoáng, mờ ảo, tưởng tượng. Không vì những quan niệm của con ngườiáng mây ấy phải lưu lại dấu, mây là mây và nó cứ lững lờ bay nhẹ theo làn gió, chứ không ai có thể bắt nó phải in hình hài vào được, vì nó là nó kia mà. Nếu có, thì cơn gió vô tình cùng với mây trôi về phương trời vô định, mà gió cũng chỉ làm phận sự đưa đường cho mây đi mà thôi, nhưng mây không chịu đi thì gió cũng đành chịu, mây cũng đã từng phủ trên đỉnh núi chơ vơ mà không cần phải đi đâu cả.


Dòng nước cũng đã lắm phen rơi vào cảnh tương tợ như thế, đã bao nhiêu biến thiên của cuộc đời, và cũng đã bao lần bóng nhạn bay qua sóng nước, nhưng rồi chìm khuất vào cõi vô cùng chẳng lưu lại dấu vết gì.


Nếu Tâm con người trong và yên lặng như mặt nước hồ thu, đón nhận tất cả không khởi lên lòng thương ghét, vương vấn. Mọi vật đi qua không lưu lại dấu vết, đó không phải là điều giải thoát hay sao ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1282)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1565)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 2169)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5916)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3703)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4952)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4662)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6890)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18346)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3922)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 3007)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5726)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11350)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9277)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2647)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6878)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3279)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 6004)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 4041)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5593)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18458)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6451)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5891)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3559)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2540)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13823)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5418)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2756)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 4030)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4579)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3971)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2673)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4422)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3370)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4746)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7715)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3476)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3826)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3485)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7724)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12740)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16312)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4587)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52838)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8722)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16178)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4098)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3833)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8727)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4055)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12770)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12627)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17316)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7264)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5945)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7307)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8468)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5380)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6759)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8799)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5471)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6513)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4737)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14231)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5650)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5794)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9992)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8826)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7291)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35237)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5556)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10719)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13195)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7718)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17914)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6658)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19989)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13563)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16352)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 27174)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 29072)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10931)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7669)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7124)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10234)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10265)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8115)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8162)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6921)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10089)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20991)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24304)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15365)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8254)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18910)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16747)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10975)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7381)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7961)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14384)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant