Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khách Trần

13 Tháng Giêng 202005:10(Xem: 5977)
Khách Trần
KHÁCH TRẦN

Thích Nữ Huệ Trân


chuaadida_full_qua-song-hay-bo-thuyen-be.jpg
Khách ghé quán trọ, nghỉ một đêm hay lưu tạm dăm ba bữa, rồi khách cũng đi. Người chủ quán không di chuyển, vẫn ở đó, nhận diện rõ ràng từng người khách đến và đi. Người chủ quán rất bình an, thanh thản như thế, trước khi khách đến cũng như sau khi khách đi. Người khách này ra đi, có thể, người khách khác lại ghé, rồi cũng lại đi. Chủ quán chẳng vì người trước hay kẻ sau mà di chuyển.

Hạnh phúc hay đau khổ, giầu nghèo hay sang hèn đều là khách trần, đến rồi đi.

Bản Tâm ta là chủ quán, trụ trong an tịnh, không đến cũng không đi.

Khách trần đến rồi đi là sinh diệt.

Bản Tâm không xao động, không di chuyểnthường hằng.

 

Tự thể của tâm, phải chăngKhông Tánh, là tự tánh Bát Nhã, không trong không ngoài, không nhơ không sạch, không thêm, không bớt… Chỉ có dòng tương tục của tâm, khi xúc cảnh, khởi phân biệt mà bị nhận diện là vui hay buồn, là hạnh phúc hay đau khổ mà thôi.

Khi tâm đạt được thể Không Tánh, tức là trụ được trong bản chất đích thực, thì vui buồn thế gian sẽ chỉ như những khách trần, như những hạt bụi luôn xô đẩy nhau, lao xao biến hoại trong hư không mà chẳng hề khiến hư không giao động.

          Lý thì như thế nhưng thực tế không hẳn hoàn toàn là thế.

Khi học đạo, chúng ta thường được quý minh sư nhắc nhở phải giữ ý buông lời, nắm lấy chủ ý để khi thực hành, tùy cảnh huống mà quán xét, mà hành xử, không vì chấp văn tự mà uổng phí bao năm đi tìm sự an tâm như ngài Huệ Khả, cho đến khi gặp Tổ Đạt Ma mới được khai thông, chứng ngộ.

          Cũng thế, chẳng phải trước mọi cảnh huống, tâm đều biểu lộ tự tại mới là tâm trụ nơi Không Tánh.

          Trong Đại Trí Độ nói rằng Bồ Tát Thường Đề thực hành Đại Bi Tâm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật rất thuần nhuyễn, uyên áo, nhưng nhìn thấy chúng sanh quá trầm thống trong biển khổ nên đôi mắt ngài lúc nào cũng đẫm lệ. Lệ này không phải lệ bi thương ủy mỵ nên lệ này chẳng thể làm xao động tâm an trụ. Lệ này khởi từ lòng bi mẫn chỉ khiến Bồ Tát xả thân nhiều hơn.

          Với tâm thế nhân thì ý niệm yêu thương thường hạn hẹp, vị kỷ. Khi yêu thương ai, ta phải được đáp lại, được gần gũi mới là hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng tình yêu của Đức Thế Tôn thì khác. Thế Tôn yêu thương mọi người mọi loài bình đẳng nên suốt bốn mươi chín năm trên đường hoằng hóa, Thế Tôn đã độ cho bất cứ ai mà ngài có thể độ, từ em bé chăn trâu, người gánh phân, tên sát nhân, cho tới hàng vua chúa, vương tôn công tử.

Bước chân Thế Tôn tới đâu là quà tặng an lạc được trao tới đó. Kẻ nhận quà, nếu biết thụ hưởng thì dù Thế Tôn còn đó hay đi xa, quà tặng đã trở thành gia tài của người nhận.

Điều này thể hiện rất rõ trước phút Thế Tôn nhập Niết Bàn. Giữa rừng cây sa-la đầy hoa trắng, Thế Tôn đã ân cần nói với các đệ tử thân yêu quanh ngài rằng “Sau khi ta diệt độ thì Pháp và Luật mà ta để lại chính là ta, là đạo sư của các con. Tuân hànhtu tập theo Pháp và Luật đó chính là các con vẫn luôn ở gần ta, là ta không từng rời xa các con”.

          Nghe những lời dặn dò đó, tôn giả A Nan cũng phải nín bặt khi đang úp mặt vào thân cây, nức nở khóc. Nhưng sự nín bặt đó cũng chỉ là hình thức ngưng lệ chảy mà thôi chứ đâu thể ngưng được lòng buồn khổ.

Chẳng phải riêng ngài Anan mà hầu hết những đại đệ tử của Phật đều không thể dễ dàng chấp nhận sự bình thản, khi Thế Tôn ra đi, dù trên lý, các ngài đều đã hiểu rất rõ lời Thế Tôn căn dặn.

Lòng hoài vọng nhớ thương Tôn-sư đã lồng vào Pháp và Luật,  nên suốt thời gian dài sau đó, Tăng đoàn tuy vẫn học, vẫn tu mà vẫn âm thầm cảm nhận sự thiếu vắng hình bóng vị Thầy tột cùng tôn quý, là khoảng trống chẳng một ai có thể thay thế được.

Những đại đệ tử, những tỳ-kheo được thân cận và học hỏi trực tiếp từ Đức Phật mà còn khó ngăn cảm xúc như thế, huống chi chúng ta, những chúng sanh cách xa Phật hai ngàn sáu trăm năm, tất còn yếu đuối tới đâu!

Điều quan trọng là khi ta biết ta yếu thì hãy nhắm mắt, thở thật sâu, niệm hồng danh Đức Thế Tôn, xin Từ Phụ truyền năng lượng để ta trở về được chánh niệm.

Đừng nản lòng vì những lời trách cứ thiếu từ bi của thế nhân như “Phật dạy mọi sự vô thường, sao lại bi lụy ở những cái vô thường vậy?” hoặc những câu hỏi thiếu thiện chí tìm cầu mà chỉ nặng phần gay gắt như “Quý vị được dạy là bản- thể-Như-Lai vốn thanh tịnh, sao còn phải tu để được thanh tịnh?”

Chúng ta phải tập quen với tâm thế gian này, để nhẹ nhàng phân giải rằng, bản-thể-Như-Lai quả là vốn thanh tịnh nhưng vì bị vô minh che lấp, duyên huân tập theo vô minh mà sanh ra hiện tượng khổ đau phiền não.

 Đó là trạng thái bản thể duyên ra hiện tượng.

Chúng sanh luôn ở trong trạng thái  này nên chúng sanh cần phải nỗ lực tu, vận dụng Tăng, Thượng, Huệ để đối trị tà kiến, ngã mạntrở về bản thể trong sáng của mình.

Thành Phậtchuyển hóa trí tuệ, đạt tới vô thượng Bồ-Đề và giữ được tâm này thường hằng, không hề đứt đoạn.

Có lẽ Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất không nhận mình là giáo chủ, là thánh thần, là cao tột, khác biệt với mọi người. Ngài chỉ nhận là mình đã thấy được lẽ vô thường, đã nhận ra bản chất đích thực cao quý trong mỗi tấm thân tứ đại vô thường, đã tìm ra cai ngục tên là Vô Minh, hằng nhốt chúng sanh trong luân hồi tăm tối.

Ngài chỉ là người thấy trước, nên ân cần chỉ dạy lại cho những ai muốn thoát khỏi quỹ đạo khổ đau này. Những ai TIN lời ngài, NGUYỆN theo đường ngài đi, PHỤNG sự tuân thủ những pháp môn ngài chỉ dạy và HÀNH trì nghiêm chỉnh những gì học hỏi được, thì người đó cũng bình đẳng với ngài. Ngài là Phật thì người đó cũng sẽ là Phật.

Lời ngài nói trung thựcđơn giản thế thôi.

Hai ngàn sáu trăm năm, Đức Phật đã là ông chủ quán nhìn tường tận nhất, những khách trần đến rồi đi, sinh rồi hoại. Chủ quán chưa hề rời quán vì ông thường hằng hiển hiện sáng ngời qua Pháp và Luật ông để lại.

Lành thay, những khách trần sớm biết mình là bụi để kịp dừng lại lao  xao mà tĩnh lặng với hư không trong vô sanh bất diệt.

Đó là những chúng sanh đã giác ngộ, chuyển hóa được thân phận Khách Trần của mình để trở thành Chủ Quán.  

          Không nhớ mấy câu thơ không đầu không cuối này từ đâu, do vị nào

viết, nhưng chính cái chất liệu lơ lửng này lại khiến ý thơ tràn đầy bát ngát. Xin tác giả cho phép ghi lại đây, thay búp tay sen để được dừng bút:

                   “Tâm sầu lắm ư?

                   Thôi đi nhị kiến,

                   Chẳng còn ba, tư

                   Trên con đường thật

                   Người về với NHƯ”

Thích Nữ Huệ Trân

(Thời khắc giao mùa)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5372)
Góp phần bàn luận về ý nghĩa cầu siêu trong Phật giáo, nay xin dẫn Tương ưng bộ kinh (Saṃyutta Nikāya), phẩm Tương ưng thôn trưởng để phân tích về vấn đề này.
(Xem: 4695)
Tôi không phải là nhà văn, nhưng tôi thích viết và kể lại những chuyện vui về ăn chay. Phải nói rằng, tôi thích thú ăn chay, mê ăn chay;
(Xem: 5249)
Chúng ta đều biết, giáo dụccông trình quan trọng hàng đầu cho mọi nền phát triển của xã hội văn minh.
(Xem: 4741)
một lần Đấng Thế Tôn lưu trú tại bộ tộc của người Koliyan, gần một ngôi làng mang tên là Haliddavasana,
(Xem: 4851)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 5595)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 4146)
Cứ mỗi tháng 2 dương lịch, Hoa Kỳ lại đón mừng Tháng Lịch Sử Da Đen (Black History Month), nhằm vinh danh thành quả của người da đen Hoa Kỳ, một truyền thống lần đầu tổ chức vào năm 1926 bởi sử gia Carter G. Woodson và kéo dài tới bây giờ.
(Xem: 4070)
Chuông ngân Bát Nhã tầng không. Lễ hội Viên Giác sen hồng dâng hương. Gió lành trải khắp muôn phương. Con đường lý tưởng, con đường độ sinh.
(Xem: 3735)
Câu hỏi này đặc biệt được quan tâm trong tình hình hiện nay, trong khi chuyên gia WHO cảnh báo có thể sẽ tới cao điểm là 2/3 nhân loại nhiễm vi khuẩn COVID-19
(Xem: 4113)
Thiên tài không cần đợi tuổi, mà thiên tài thì rất ít, nhân tài cũng không nhiều, nhưng dù sao thì vẫn có, chỉ có hiền tài mới là điều hiếm quý mà thôi.
(Xem: 6884)
Đầu năm Canh Tý này có khá nhiều biểu hiện bất tường trên khắp hành tinh, chỉ hi vọng là.. ''tiền Hung thì hậu Kiết''.
(Xem: 4837)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhấ
(Xem: 3811)
Tác Giả đã dày công nghiên cứu qua cái nhìn Phật Học và Khoa Học của mình cũng như mong độc giả hãy cố tìm đến quyển sách giá trị nầy để xem và để hiểu đúng với lời Phật dạy vậy.
(Xem: 4135)
Có chàng nọ thuở xa xưa Từ lâu phục dịch cho vua của mình Quả là khổ sở thật tình Tâm tư mỏi mệt, thân hình tang thương
(Xem: 5217)
Có những mùa khô nắng đổ trên thịt da bỏng rát. Đất nứt từng rãnh, chia thành những ô vuông bé nhỏ. Mỗi ô vuông nứt ra một mệnh đời.
(Xem: 4141)
con người, tất cả chúng ta đều có khả năng đem đến hạnh phúcthương yêu cho người khác, và cũng có thể gây khổ đau cho kẻ khác.
(Xem: 4723)
Khi có một hiện tượng mới ra đời thì sẽ có nhiều ý kiến, nhận định khác nhau về hiện tượng đó.
(Xem: 4076)
Phật pháp luôn sẵn đó, hiện bày trước mắt mỗi người. Chúng sanh do loạn động chôn vùi, vô minh che lấp cho nên bỏ sót, không nhận ra.
(Xem: 4539)
Trong cuộc đời mỗi người, chúng ta luôn có những lựa chọn sống. Trong cùng một hoàn cảnh bị cuộc sống xô đẩy mà ...
(Xem: 4665)
Hạnh phúc là đích nhắm đến trong cuộc đời, điều đó hẳn nhiên không ai phủ nhận. Nhưng sao chúng ta lại có quá ít hạnh phúc?
(Xem: 4414)
Những cánh rừng bạt ngàn, nối nhau rực cháy suốt mấy tháng cuối năm ở Úc. Hình ảnh lửa phừng đăng trên báo chí, truyền hình thật kinh hãi!
(Xem: 5391)
Đức Phật thuyết giảng cách nay đã hơn 2500 năm, và có lẽ chúng ta cũng muốn biết là Ngài đã sử dụng ngôn ngữ nào?
(Xem: 5800)
Trong đạo Phật, nghiệp gồm có: ý nghiệp, khẩu nghiệpthân nghiệp. Ý là suy nghĩ của mình. Khẩu là lời nói của mình. Thân được hiểu là hành động của mình.
(Xem: 4463)
Làm thế nào mà một vị vua được cả nước tôn quý, đứng trên thiên hạ, ở nơi cung vàng điện ngọc mà vẫn xót thương, tưởng nghĩ đến tù nhân và dân đen?
(Xem: 5503)
Nhìn ra vấn đề Mỗi ngày, hình như ai trong chúng ta cũng có soi gương. Khi soi, chúng ta chỉ thấy mặt mình trong đó, chúng ta có học được bài học gì không?
(Xem: 5707)
Một chiều, dừng chân bên bờ suối, lữ khách chợt cảm nhận dường như nơi đây đã từng qua.
(Xem: 10660)
Tu tâm dưỡng tánh là nơi đời mà hành đạo, nơi thân mà giữ đạo, nơi ý mà niệm đạo, nơi khẩu mà hợp đạo, nơi cõi trầnnhập đạo, nơi cõi pháp mà xuất thế đạo.
(Xem: 5271)
Tăng đoàn (Shanga) Phật giáo gồm có Tu sĩCư sĩ. Tu sĩ gồm có Nam tu sĩ/ Tăng/Tì-kheo và Nữ tu sĩ/Sư Cô/Tì-kheo ni là hai chúng xuất gia, có nhiệm vụ truyền giáo, hoằng dương chánh pháp.
(Xem: 4981)
Trạng thái của tâm là hỷ, nộ, ai, ái, ố, lạc, dục (mừng, giận, buồn, thương, ghét, vui, muốn) là bảy thứ tình cảm của con người.
(Xem: 4853)
Phòng hộ sáu căn là việc quan trọng của người tu. Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) luôn tiếp xúc với sáu trần
(Xem: 4322)
Thế là mùa xuân về, em ở đâu chẳng về phó hội? em ở đâu mắt biếc má đào có còn long lanh giữa giòng đời? áo lụa, gót son có về kịp xênh xang đón xuân sang?
(Xem: 4215)
Cuối năm chúng ta cùng nhau kiểm điểm lại những điều tốt xấu trong năm qua để bắt đầu chỉnh sửa cho một năm mới được hanh thông tốt lành hơn.
(Xem: 4661)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn
(Xem: 4649)
Những ngày gần Tết, người người bận rộn, nhà nhà rộn ràng để dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa đồ đạc đón một năm mới.
(Xem: 6522)
Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) Đức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy chăm tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”.
(Xem: 5857)
Mùa xuân lại về trên khắp đất nước, với sự hồi sinh của vạn vật sau mùa đông, dường như trong các cây cối hoa lá lại vươn ra
(Xem: 5313)
Cũng như một năm khởi đầu từ mùa xuân; đời người khởi đầu từ tuổi trẻ. Nhưng các bạn trẻ hôm nay có biết hưởng mùa xuân của đời mình không?
(Xem: 5282)
Gần đây, có người tự nhận là trí thức khoa bảng tuyên bố trên mạng thông tin đại chúng rằng “Nền tảng Phật giáo lung lay từ lâu
(Xem: 5040)
Sương mai mù mịt xóm nhỏ. Những hàng cây như yên lặng nín thở để đón nhận làn sương lạnh cuối đông.
(Xem: 4492)
Những chia sẻ của Đức Đạt Lai Lạt Ma giúp mỗi người hiểu vì sao thực hành chính niệmnuôi dưỡng từ bi tâm tất yếu dẫn đến sự tự tin và lòng nhân ái nơi mỗi người.
(Xem: 4674)
“Vạn Hạnh dung tam tế Chơn phù cổ sấm cơ Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ”
(Xem: 6034)
Mỗi độ Xuân về, trong nhà Thiền, bài thơ được nhắc đến nhiều nhất là bài ‘Cáo tật thị chúng’ của thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096)
(Xem: 4171)
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng.
(Xem: 4373)
Như đã biết, qua kinh sử, Giáo hội ni giới được thành lập rất sớm tại Ấn, vào thời Phật hiện tiền...
(Xem: 7608)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 4786)
Già bệnh chết là đề mục quán niệm của Thái tử Sĩ-đạt-ta khi còn sống trong cung vàng điện ngọc, nhờ đó mà Ngài dứt bỏ tất cả buộc ràng quyết chí ra đi tìm đạo
(Xem: 5218)
Tuệ Trung Thượng Sĩanh cả của hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Thượng Sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã.
(Xem: 4621)
Xây nhiều chùa lớn, dựng nhiều tượng Phật khổng lồ có thể giải nghiệp hay không?
(Xem: 6412)
Ta phải cẩn thận để không có sự chia rẽ hệ phái trong Phật giáo, vì hệ phái là một loại cuồng tín.
(Xem: 5199)
Trong kiếp phù sinh, biết bao người đốt đuốc tìm tri kỷ mà lúc nhắm mắt xuôi tay cũng vẫn ngậm ngùi ôm mối cô đơn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant