Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sâm Hạ Đại Viên Giảng Giải Phẩm Phổ Môn

29 Tháng Giêng 202417:52(Xem: 1162)
Sâm Hạ Đại Viên Giảng Giải Phẩm Phổ Môn

Sâm Hạ Đại Viên Giảng Giải Phẩm Phổ Môn

 Đại sư Tinh Vân
Thích nữ Hạnh Huệ

Bồ Tát Đạo


LỜI MỞ ĐẦU


Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung QuốcNhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết. Tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm cũng chẳng hạn cuộc ở chùa chiền am thất, không hạn cuộc ở Phật giáo đồ quy y Tam bảo. Bất kể là đô thị, làng quê, núi sâu, bờ biển, hễ chỗ nào có người ở, trong nhà họ, nói không ngoa lắm, đều có thờ một tượng từ bicủa Bồ-tát Quán Thế Âm.

Vì sao mà Bồ-tát Quán Thế Âm lại được quần chúng đông đảo tín ngưỡng? Bồ-tát trong Phật giáo rất nhiều, lúc Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết kinh Pháp Hoa, Bồ-tát tại tòa nhiều đến tám vạn, ngay các vị đại biểu cũng có đến mười tám vị đại Bồ-tát. Trong mười tám vị đại Bồ-tát, có Bồ-tát không những không ai cung phụng, trì tụng, mà thật tình cũng ít người biết đến. Nhưng Bồ-tát Quán Thế Âm lại là người ai ai cũng biết, ai ai cũng tin. Đây là đạo lý gì? Đọc phẩm Phổ Môn rồi, anh tự nhiên hiểu rõ ràng ra.

Trong Phật giáo có một bộ kinh vĩ đại tên là kinh Diệu Pháp Liên HoaBộ kinh này có thể nói là một bộ kinh trình bày bản hoài của đức Thế Tôn, mà phẩm Phổ Môn hiện được giảng chính là phẩm thứ 25  trong kinh này, là một trong 28 phẩm của kinh Pháp Hoa.

Nội dung phẩm này hoàn toàn là thuyết minh về lợi ích Phổ Môn của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhân đây thường thường có người đem một phẩm này lễ tụng riêng. Người thường gọi là kinh Quán Âm chính là chỉ phẩm Phổ MônPhẩm Phổ Môn là gọi tắt, hoàn chỉnh nên gọi là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm”.

Phẩm Phổ Môn đã từng biết qua rồi, nhưng ý nghĩa năm chữ “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” chẳng thể không hiểu rõ. Năm chữ này có nghĩa rất rộng, lý rất sâu. Nếu như giải thích cho tường tận, chắc có thể thành giảng nghĩa toàn bộ kinh Pháp Hoađồng thời cũng có thể biết bản hoài xuất thế của Thích Tôn, nguyên lý căn bản của Phật giáo. Do đó, giảng một cách đơn giản, là điều không thể đủ rõ ràng. Nhân vì bản kinh là thuyết minh nguyên lý căn bảncủa Phật giáo, trong mấy ngàn quyển kinh Phật giáo, có thể gọi đây là vua trong các kinh. Nếu như muốn giảng rõ kinh này, thế ắt phải nói đến lý luận chỉnh đốn Phật giáo.

Liên quan đến sự giải thích kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mặt sau sẽ thuyết minhhiện tại sẽ thuyết minh về dịch giả của kinh này trước đã.

Bộ kinh này vốn từ bản tiếng Phạn của Ấn Độpháp sư Cưu-ma-la-thập đời Diêu Tần đã đem dịch ra tiếng Hán.

La-thập là một trong bốn nhà phiên dịch lớn của Phật giáo. Bốn nhà phiên dịch lớn này là bốn vị La[1]thập, Chân ĐếHuyền Trang và Bất Không. Trong bốn vị, đặc biệt la ø pháp sư La-thập, bất kể la ø trên giáo nghĩa hay trên phiên dịch, Ngài đều chiếm địa vị rất trọng yếu. Vì sự phiên dịch của Ngài là sự đổi mới rất lớn trong giới phiên dịch. Như kinh Pháp Hoa, trước và sau bản dịch của La-thập, từng có mấy loại phiên dịch, như bản dịch của Trúc Pháp Hộ. Tuy cũng là bản dịch toàn bộ, nhưng chỉ có bản dịch của La[1]thập thịnh hành nhất. Đại sưTrí Giả khai lập tông Thiên Thai, đã đem bản dịch của La-thập làm cơ sở. Từ tình hình này mà xem, trình độ vượt bực của Ngài tưởng cũng có thể biết được.

La-thập là người Trung Á-tế-á, tức xưa gọi là người nước Quy Tư ở Tây Vực. Lúc Ngài bảy tuổi theo mẹ đi tham phỏng danh sư khắp nơi, tinh cần nghiên cứu giáo điển. Tựu trung, chủ yếu là nghiên cứu pháp môn kế thừa Long Thọ, mà phiên dịch Pháp Hoa, Bát[1]Nhã tức là chủ trương dịch thuật kinh thuộc pháp môn của mình.

Đồ đệ của La-thập, có Tăng Duệ - Tổ sư của Tứ luậnĐạo Sinh - Ông tổ của Tam luận, đều có trợ giúp cho cơ sở khai lập của tông Thiên Thai.

La-thập đến Trung Quốc hơn 1500 năm trước. Thời đó, chính là gặp loạn Ngũ Hồ của Trung Quốc, vì Tấn triều bị Di Địch từ Tây Bắc bức bách đến phương Nam, dựng nghiệp ở hạ lưusông Dương Tử (nay là Nam Kinh) lập kinh đô xưng là Nam Tấn. Lúc ấy, tại  Trường An, lưu vực Hoàng Hà, có bậc anh kiệt là Phù Kiên độc lập, tự xưng là Tần, sử gia đời sau gọi quốc gia được lập là Tiền Tần.

Lữ Quang bề tôi của Phù Kiên thừa uy chiến thắng, đem quân chinh phạt các nơi ở Tây Vựcvà phụng mệnh rước La-thập về Trung Quốc. Nhưng không bao lâu, Phù Kiên trong một trận chiến ở Phì Thủy, bị trúng tên lạc mà chết. Tiền Tần mất rồi, Diêu Trường lên thay, xưng là Hậu Tần, còn gọi là Diêu Tần. Lữ Quang trên đường viễn chinh, nghe tin vua mình chết trận, do chính mình chiến thắng liên tiếp các nơi thuộc Tây Vực, bèn đến tỉnh Cam Túc ngày nay độc lập tự xưng là Hậu Lương. Bấy giờ La-thập theo lệnh của Lữ Quang, đến thủ đô Cô Tạngcủa Hậu Lương. Về sau đến thời Diêu Hưng vị vua đời thứ hai của Diêu Tần, ông ta rất tôn sùng Phật giáo, dùng lễ nồng hậu để đãi ngài La-thập. Niên hiệu Hoằng Thủy thứ ba, rước Ngài đến Trường AnDiêu Hưng đặc biệt đem Tây Minh Các của triều đình làm nơi ở của ngài La-thập, lấy vườn Tiêu Dao làm đạo tràng phiên dịch, trên sử Phật giáo Trung Quốcphóng ra một vẻ rực rỡ to lớn.

Một là vì La-thập có học thức và đạo đức đáng trọng vọng, hai là được Diêu Hưng bảo hộnồng hậu, nên đạo tràng phiên dịch ở vườn Tiêu Dao xem là hưng thịnh rất đáng cho người kinh ngạc! Riêng nói về môn hạ của ngài La-thập tổng số không dưới 3000 người. Lúc dịch kinh Pháp Hoa, người tham gia hơn 2000, lúc dịch kinh Tư Ích cũng hơn 2000 người, lúc  dịch kinh Duy-ma hơn 1300 người, ngoài ra như 40 quyển kinh Ma-ha Bát-nhã, một quyển kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật, một quyển kinh A-di-đà, cũng đều trong tình huống này mà phiên dịch.

Kinh Pháp Hoa là bản dịch khi La-thập đến Trường An sau năm thứ sáu, tức là đời Đông Tấn An Đế, niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ hai (406 DL), Diêu Tần niên hiệu Hoằng Thủy thứ 8.

Bản dịch kinh Pháp Hoa của ngài La-thập vốn chỉ có 27 phẩm, về sau đại khái trải qua hơn 80 năm, đời Tề Vũ Đế, niên hiệu Vĩnh Minh thứ 8 (490 DL), do Đạt-ma-ma-đề và Pháp Hiếncùng dịch thêm vào một phẩm Đề-bà-đạt-đa, bèn thành 28 phẩm. Lại nhân bản của La-thập chỉ có văn xuôi, không có trùng tụng, đến đời Tùy hơn 180 năm sau, mới lại do Xà-đa-quật[1]đa dịch trùng tụng thêm vào, mới thành bản kinh Pháp Hoa lưu hành hiện nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1525)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1601)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1777)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1620)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1508)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1281)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1410)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1366)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1406)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1363)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1325)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1549)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1613)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1676)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1559)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1529)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1297)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1448)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1414)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1490)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1546)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1606)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1458)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1580)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1472)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1423)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1520)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1428)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1602)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1883)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1560)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1855)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1436)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1382)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1577)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1430)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1519)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1684)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1884)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1913)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1736)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1911)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1601)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1538)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2075)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1685)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1601)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1550)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant