Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục Tổ Huệ Năng: “huệ Năng Không Tài Nghề, Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”

17 Tháng Giêng 202418:23(Xem: 847)
Lục Tổ Huệ Năng: “huệ Năng Không Tài Nghề, Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”

Lục Tổ Huệ Năng:
 “Huệ Năng Không Tài Nghề,  Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”


Nguyễn Thế Đăng

 hinhphat



Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.

Có vị tăng đọc lại bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân có nghề giỏi
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh chẳng khởi tâm
Bồ đề ngày càng lớn.

Sư nghe kệ nói rằng: bài kệ ấy chưa rõ tâm địa. Nếu y theođó mà tu hành thì thêm sự trói buộc. Nhân đó khai thị một bài kệ

Huệ Năng không tài nghề
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm luôn khởi
Bồ đề làm sao lớn?

Điều nhận xét trước tiên là có những học giả - thiền giả cho rằng Thiền ưa “nói nghịch”, “nói nghịch lý”, như D. T. Suzuki trong Thiền Luận, Luận Sáu: Thiền pháp thực hành.

Bài kệ của Lục Tổ “Bồ đề bổn vô thọ…” có vẻ như “nói ngược, nói nghịch lại” bài kệ của ngài Thần Tú.

Không phải như vậy, vì dù nói cách nào Thiền cũng luôn luôn là “khai thị”, “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Trong đoạn trích ở trên, kinh cũng nói, “Lục Tổ nhân đó khai thị một bài kệ”. Nói nghịch chỉ là một loại hý luận.

Trong bài: này chúng ta tập trung vào câu “Chẳng dứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm luôn khởi”. Đây là vấn đề quan trọng, thậm chí quan trọng nhất của Phật giáo, vì Phật giáo là gì nếu không phải là “tự thanh tịnh ý mình” (tự tịnh kỳ ý), tức là câu thứ ba trong bài kệ Đức Thích Ca nhắc lại lời của chư Phật:

Các ác chớ làm
Các thiện vâng làm
Tự tịnh ý mình
Là lời chư Phật dạy.

Đạo Phật có câu “tâm viên ý mã” (tâm như khỉ vượn, ý như ngựa hoang), và thực hành pháp là phải thuần hóa cái tâm vượn ý ngựa này. Còn nếu để cho ý chạy lung tung thì cũng chính ý này đưa ta vào sanh tử luân hồiVậy thì “chẳng dứt trăm tư tưởng” phải hiểu như thế nào, để chính đó là con đường giải thoát, giác ngộ?

Trước hết cần phải hiểu là một vị thánh đã giải thoát có khởi ý tưởng, có khởi niệm không? Vị ấy có ý tưởng giờ nào đi khất thực, giờ nào trở về, giờ nào dùng bữa, giờ nào thuyết pháp, và khi thuyết pháp cần phải phù hợp với đối tượng để nói cái gì và nói thế nào hay không? Chắc chắn là vị ấy vẫn có khởi niệm, có sự chuyển động của tâm thức để sống mỗi ngày nơi đời sống thế gian này.

Có một câu chuyện, một người phỏng vấn ngồi bên cạnh ngài Krishnamurti, khi ngài đang lái xe, người ấy hỏi, “Ngài nói là ngài “vô ngã”, tại sao ngài vẫn lái xe được, vẫn biết tránh xe khác, vẫn biết đạp thắng khi đèn đỏ, vẫn biết nói chuyện khi lái xe?” Có lẽ đây là một ‘công án’ đối với người bình thường, vì chuyện bình thường của một vị thánh giải thoát thì không thể hiểu với người bình thường. Tại sao vô ngã mà vẫn sống ở đời, vẫn có hoạt động của thân, khẩu, ý, mà không phải là một bộ máy được lập trình sẳn, không thay đổi, không biết đáp ứng với hoàn cảnh thay đổi.

Chúng ta phải hiểu “chẳng dứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm luôn khởi” như thế nào. Phần đầu chúng ta sẽ tìm hiểu theo lời giảng dạy của Lục Tổ trong Pháp Bảo Đàn Kinh, và phần thứ hai theo những thành tựu giả của truyền thống Ấn Tạng.

 

1/ Theo Lục Tổ

Tánh Không không phải là không có gì cả, một “cái không vô ký”:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký. 

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướngmặt trời mặt trăngtinh tú, núi sông, đất đai, suối khe, cây cỏ, rừng rú, người thiện, người ác, sự thiện sự ác, thiên đường địa ngục, biển lớn, các núi Tu di, tất cả đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí huệ, thứ hai)

Đây là điều Bát nhã Tâm kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”, chứ chẳng phải trong Không không có sắc, không có gì cả.

“Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”: bản tánh hay tự tánh của con người là tánh Không. Khi nói đến pháp môn chỉ thẳng tự tánh ngài xác định tự tánh tánh Không là Vô niệmVô tướngVô trụ:

Thiện tri thức! Pháp môn xưa nay của ta trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụlàm gốc”.

(Phẩm Định Huệ, thứ tư)

Như vậy, tự tánh con ngườibản tánh của tâm, là tánh Khôngvô niệmvô tướngvô trụ.

Vô niệm không nên hiểu đơn sơ là không có niệm, không có ý nghĩTrái lại vô niệm mang một ý nghĩa tích cực sinh động phi thường, vì vô niệm chính là trí huệ bát nhã:

Thiện tri thức! Trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết bản tâm mình. Nếu rõ bản tâm tức là vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát nhã tam muộiBát nhã tam muội tức là vô niệm

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết tất cả pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám chỗ nào. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, dùng suốt thông không trệ, tức là Bát nhã tam muộitự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm

Nếu trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến

Thiện tri thức! Ngộ pháp vô niệm thì muôn pháp suốt thông. Ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giớichư Phật. Ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật”.

(Phẩm Trí huệ, thứ hai)

Vô niệm không phải là “trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến”. Vô niệm là bản tánh Không của tâm, là nền tảng Không của tâm, trên đó có sự hoạt động của thức nơi các căn, các trần, tức là hoạt động của niệm: “Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm tạp, đến đi tự do, dùng suốt thông không trệ, tức là Bát nhã tam muộitự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm”.

Vô niệm không phải là không có pháp, không có các hiện tượng, mà là “muôn pháp suốt thông”

Thức hoạt động, có khởi niệm nhưng vẫn suốt thông, không chướng ngại bởi ngã và pháp. Sự hoạt độngsanh khởi trên nền tảng tánh Không vô sanh của tâm, nên động mà không động, khởi mà không khởi, sanh mà không sanh. Niệm là niệm của bản tâm, của tự tánh, mà bản tâm tự tánh là vô niệmvô tướngvô trụ, nghĩa là vốn giải thoát, nên niệm cũng giải thoát.

Hơn nữa, đối với người thấy tánh, thấy bản tánh của tâm, thấy thật tướng của niệm, thì niệm chẳng phải là sai lầm, chẳng phải là tội lỗi gì, vì niệm chính là sự khởi dụng của Chân Như.

Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân NhưChân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay. 

Thiện tri thức! Tự tánh Chân Như khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hay biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn hằng tự tại

Thế nên kinh nói: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp mà trong đệ nhất nghĩa chẳng động”.”

(Phẩm Định Huệ, thứ tư)

Khi đã nhận biết tự tánh Chân Như và an trụ vững vàng trong đó, người ta sẽ biết cái dụng của tự tánh Chân Như, tức là “tự tánh Chân Như khởi niệm”. Khi ấy khởi niệm chính là Chân Như khởi niệm. Sóng có khởi, nhưng sóng ấy vẫn là nước của đại dương. Khi ấy người ta thấy thức không còn là thức mà là trí; thức phân biệt chính là trí vô phân biệt.

 

Điều này được xác quyết trong câu chuyện đối đáp giữa sư Huyền Giác và Lục Tổ:

Huyền Giác cùng Huyền Sách đến tham vấn, đi nhiễu Tổ ba vòng, rồi chống tích trượng mà đứng. 

Sư nói: Phàm là sa môn thì phải đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnhđại đức từ phương nào đến đây mà sanh ngã mạn lớn vậy? 

Huyền Giác bạch: Sanh tử là việc lớn, vô thường thì nhanh chóng. 

Sư nói: Sao chẳng thể hội vô sanh, rõ không nhanh chóng? 

Huyền Giác bạch: Thể hội tức vô sanh, thấu rõ vốn không nhanh chóng. 

Sư nói: Như vậy, như vậy. 

Huyền Giác bèn đủ oai nghi lễ lạy, rồi một lát xin cáo từ

Sư nói: Trở về nhanh chóng vậy? 

Bạch: Vốn tự chẳng động, có gì là nhanh chóng? 

Sư nói: Ai biết chẳng động? 

Bạch: Nhân giả tự sanh phân biệt

Sư nói: Ông rất đắc cái ý vô sanh

Bạch: Vô sanh há có ý sao? 

Sư nói: Không có ý thì cái gì đang phân biệt? 

Bạch: Phân biệt cũng chẳng phải ý. 

Sư nói: Hay thay! Hãy ở lại đây ít ra một đêm. 

Lúc bấy giờ gọi là Một Đêm Giác. Về sau có làm Chứng Đạo Cathịnh hành trong đời. Được sắc phong là Vô Tướng đại sư, đương thời xưng là Chân Giác

“Phân biệt cũng chẳng phải ý”, tức là thức phân biệt chính là trí vô phân biệt. Nói theo Tông Duy Thức, thì đây là sự “chuyển thức thành trí” rốt ráoThật tướng của thức chính là trí, niệm khởi của thức chính là Chân Như.

 

2/ Theo truyền thống Ấn Độ - Tây Tạng

Ở đây chỉ trích dẫn một số câu để nói lên sự tương đồng mà không giải thích.

Đại thành tựu giả Ấn Độ Tilopa, vị khai sáng tông phái thực hành Kagyu, nói:

Không phải các hình tướng bên ngoài trói buộc con, mà chính sự bám luyến bên trong vào hình tướng trói buộc con”.

- Bài nguyện Đại Ấn của Karmapa thứ ba Rangjung Dorje (1284-1339) nói:

Mọi hiện tượng là trò phô diễn như huyễn của tâm
Tâm vốn không có tâm - trống không mọi thực thể 
Không mà không diệt, biểu lộ như bất cứ sự gì
Chứng ngộ rốt ráo điều này, nguyện cắt đứt gốc rễ của nó.

Không chứng ngộ cái này, lưu chuyển mãi biển sanh tử luân hồi.
Chứng ngộ nó, Phật quả không ở đâu khác
Nó hoàn toàn không có “như thế này” hay “như thế kia”
Nguyện thấy điểm cốt yếu này của nền tảng tất cả, bản tánh của mọi sự.

 

Thấy biết là tâm, trống không cũng là tâm.
Thấu rõ là tâm, mê lầm cũng là tâm
Sanh khởi là tâm, diệt mất cũng là tâm
Nguyện cắt đứt mọi nghi ngờ về tâm…

 

Patrul Rinpoche, vị thầy Tây Tạng phái Nyingma viết trong Giáo lý Đặc biệt của đức Vua Thông tháivà Vinh Quang để giảng Ba Lời Tuyên Bố của Garab Dorje (Những Chữ Vàng, nxb Thiện Tri Thức, 2002):

III

Vào lúc đó, bất cứ tham hay sân, bất cứ vui hay buồn,
Bất cứ tư tưởng lan man nào thình lình khởi lên,
Trong trạng thái nhận biết chúng, người ta không theo chúng.
Từ đó người ta nắm giữ sự nhận biết Pháp thân về mặt giải thoát,
Bấy giờ giống như vẽ hình trên mặt nước,
Không có sự cách hở giữa tự - sanh khởi (của những tư tưởng) và tự - giải thoát của chúng.
Bất cứ cái gì khởi lên trong tâm đều thành thực phẩm cho tánh Giác rỗng không trần trụi;
Khi nào những chuyển động của tư tưởng xảy ra, chúng tiêu biểu năng lực sáng tạo của vua Pháp thân;
Không để lại dấu vết, những tư tưởng này là tự - tịnh hóa.
A-la-la!

 

Không sanh, không căn cứ, và hợp nhất, một bài ca kim cương của Milarepa, (trích Những Bài ca của tông phái thực hành, nxb Thiện Tri Thức, 2018)

 

Thật tánh của những xuất hiện là chúng không bao giờ sanh
Nếu sanh có vẻ xảy ra thì đó chỉ là bám nắm, không gì hơn
Bánh xe quay của hiện hữu không có một căn cứ hay gốc rễ
Nếu có một căn cứ hay gốc rễ, đó chỉ là một ý tưởng.

Thật tánh của tâm là hợp nhất, không thể chia tách
Nếu bạn chia tách những phương diện của nó,

bạn bị mắc vào cái thấy nào đó

Dấu hiệu của những lama chân thật là họ nắm giữ một dòng phái
Những người nhồi nhét kiến thức chỉ là những kẻ câm.

Thực tại nền tảng của tâm thì giống như bầu trời sáng tỏ và rộng mở
Nhưng những đám mây đen tư tưởng che phủ tất cả
Thế nên hãy để lời khuyên cốt lõi của lama
Là ngọn gió thổi tan chúng.

 

Dù những tư tưởng mê lầm, chính chúng là tịnh quang chiếu soi sáng rỡ
Những kinh nghiệm rực rỡ như mặt trời mặt trăng
Không phương hướngsáng tỏ chiếu sáng, không thời gian
Bạn không thể tìm thấy nó, nên bạn không thể nói nó là gì.

Rất nhiều loại xác quyết chiếu sáng như sao trên trời
Bất cứ gì sanh khởi là lạc vĩ đại nhất
Bản tánh của nó là đơn giản, sự trải rộng của Pháp thân
Sáu xuất hiện duyên sanh là trống không tự nhiên.

Dòng tự nhiên này là không cố gắng

không có một phiền não nào được nhìn thấy

Trong trạng thái nền tảng này, hãy hoàn toàn thư giãn
Trí huệ không chỗ trụ thường trực hiện diện
Ba thân không thể chia tách - phép lạ vĩ đại nhất! 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3196)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3587)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4106)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5320)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2723)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6235)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3132)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3189)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3398)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3319)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3385)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4646)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2796)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5315)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3982)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3924)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3296)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4222)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5134)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3624)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6871)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 4056)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3298)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3184)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 3049)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5959)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4726)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3553)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2950)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3367)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4509)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5811)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6727)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3806)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4618)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4696)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 4054)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3480)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4760)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6161)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5921)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3719)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4767)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4534)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4597)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4358)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4683)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8293)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 4013)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5807)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5303)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6932)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6282)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6092)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5915)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6392)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6863)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5049)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5661)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant