Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục Tổ Huệ Năng: “huệ Năng Không Tài Nghề, Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”

17 Tháng Giêng 202418:23(Xem: 849)
Lục Tổ Huệ Năng: “huệ Năng Không Tài Nghề, Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”

Lục Tổ Huệ Năng:
 “Huệ Năng Không Tài Nghề,  Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”


Nguyễn Thế Đăng

 hinhphat



Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.

Có vị tăng đọc lại bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân có nghề giỏi
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh chẳng khởi tâm
Bồ đề ngày càng lớn.

Sư nghe kệ nói rằng: bài kệ ấy chưa rõ tâm địa. Nếu y theođó mà tu hành thì thêm sự trói buộc. Nhân đó khai thị một bài kệ

Huệ Năng không tài nghề
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm luôn khởi
Bồ đề làm sao lớn?

Điều nhận xét trước tiên là có những học giả - thiền giả cho rằng Thiền ưa “nói nghịch”, “nói nghịch lý”, như D. T. Suzuki trong Thiền Luận, Luận Sáu: Thiền pháp thực hành.

Bài kệ của Lục Tổ “Bồ đề bổn vô thọ…” có vẻ như “nói ngược, nói nghịch lại” bài kệ của ngài Thần Tú.

Không phải như vậy, vì dù nói cách nào Thiền cũng luôn luôn là “khai thị”, “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Trong đoạn trích ở trên, kinh cũng nói, “Lục Tổ nhân đó khai thị một bài kệ”. Nói nghịch chỉ là một loại hý luận.

Trong bài: này chúng ta tập trung vào câu “Chẳng dứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm luôn khởi”. Đây là vấn đề quan trọng, thậm chí quan trọng nhất của Phật giáo, vì Phật giáo là gì nếu không phải là “tự thanh tịnh ý mình” (tự tịnh kỳ ý), tức là câu thứ ba trong bài kệ Đức Thích Ca nhắc lại lời của chư Phật:

Các ác chớ làm
Các thiện vâng làm
Tự tịnh ý mình
Là lời chư Phật dạy.

Đạo Phật có câu “tâm viên ý mã” (tâm như khỉ vượn, ý như ngựa hoang), và thực hành pháp là phải thuần hóa cái tâm vượn ý ngựa này. Còn nếu để cho ý chạy lung tung thì cũng chính ý này đưa ta vào sanh tử luân hồiVậy thì “chẳng dứt trăm tư tưởng” phải hiểu như thế nào, để chính đó là con đường giải thoát, giác ngộ?

Trước hết cần phải hiểu là một vị thánh đã giải thoát có khởi ý tưởng, có khởi niệm không? Vị ấy có ý tưởng giờ nào đi khất thực, giờ nào trở về, giờ nào dùng bữa, giờ nào thuyết pháp, và khi thuyết pháp cần phải phù hợp với đối tượng để nói cái gì và nói thế nào hay không? Chắc chắn là vị ấy vẫn có khởi niệm, có sự chuyển động của tâm thức để sống mỗi ngày nơi đời sống thế gian này.

Có một câu chuyện, một người phỏng vấn ngồi bên cạnh ngài Krishnamurti, khi ngài đang lái xe, người ấy hỏi, “Ngài nói là ngài “vô ngã”, tại sao ngài vẫn lái xe được, vẫn biết tránh xe khác, vẫn biết đạp thắng khi đèn đỏ, vẫn biết nói chuyện khi lái xe?” Có lẽ đây là một ‘công án’ đối với người bình thường, vì chuyện bình thường của một vị thánh giải thoát thì không thể hiểu với người bình thường. Tại sao vô ngã mà vẫn sống ở đời, vẫn có hoạt động của thân, khẩu, ý, mà không phải là một bộ máy được lập trình sẳn, không thay đổi, không biết đáp ứng với hoàn cảnh thay đổi.

Chúng ta phải hiểu “chẳng dứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm luôn khởi” như thế nào. Phần đầu chúng ta sẽ tìm hiểu theo lời giảng dạy của Lục Tổ trong Pháp Bảo Đàn Kinh, và phần thứ hai theo những thành tựu giả của truyền thống Ấn Tạng.

 

1/ Theo Lục Tổ

Tánh Không không phải là không có gì cả, một “cái không vô ký”:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký. 

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướngmặt trời mặt trăngtinh tú, núi sông, đất đai, suối khe, cây cỏ, rừng rú, người thiện, người ác, sự thiện sự ác, thiên đường địa ngục, biển lớn, các núi Tu di, tất cả đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí huệ, thứ hai)

Đây là điều Bát nhã Tâm kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”, chứ chẳng phải trong Không không có sắc, không có gì cả.

“Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”: bản tánh hay tự tánh của con người là tánh Không. Khi nói đến pháp môn chỉ thẳng tự tánh ngài xác định tự tánh tánh Không là Vô niệmVô tướngVô trụ:

Thiện tri thức! Pháp môn xưa nay của ta trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụlàm gốc”.

(Phẩm Định Huệ, thứ tư)

Như vậy, tự tánh con ngườibản tánh của tâm, là tánh Khôngvô niệmvô tướngvô trụ.

Vô niệm không nên hiểu đơn sơ là không có niệm, không có ý nghĩTrái lại vô niệm mang một ý nghĩa tích cực sinh động phi thường, vì vô niệm chính là trí huệ bát nhã:

Thiện tri thức! Trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết bản tâm mình. Nếu rõ bản tâm tức là vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát nhã tam muộiBát nhã tam muội tức là vô niệm

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết tất cả pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám chỗ nào. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, dùng suốt thông không trệ, tức là Bát nhã tam muộitự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm

Nếu trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến

Thiện tri thức! Ngộ pháp vô niệm thì muôn pháp suốt thông. Ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giớichư Phật. Ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật”.

(Phẩm Trí huệ, thứ hai)

Vô niệm không phải là “trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến”. Vô niệm là bản tánh Không của tâm, là nền tảng Không của tâm, trên đó có sự hoạt động của thức nơi các căn, các trần, tức là hoạt động của niệm: “Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm tạp, đến đi tự do, dùng suốt thông không trệ, tức là Bát nhã tam muộitự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm”.

Vô niệm không phải là không có pháp, không có các hiện tượng, mà là “muôn pháp suốt thông”

Thức hoạt động, có khởi niệm nhưng vẫn suốt thông, không chướng ngại bởi ngã và pháp. Sự hoạt độngsanh khởi trên nền tảng tánh Không vô sanh của tâm, nên động mà không động, khởi mà không khởi, sanh mà không sanh. Niệm là niệm của bản tâm, của tự tánh, mà bản tâm tự tánh là vô niệmvô tướngvô trụ, nghĩa là vốn giải thoát, nên niệm cũng giải thoát.

Hơn nữa, đối với người thấy tánh, thấy bản tánh của tâm, thấy thật tướng của niệm, thì niệm chẳng phải là sai lầm, chẳng phải là tội lỗi gì, vì niệm chính là sự khởi dụng của Chân Như.

Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân NhưChân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay. 

Thiện tri thức! Tự tánh Chân Như khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hay biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn hằng tự tại

Thế nên kinh nói: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp mà trong đệ nhất nghĩa chẳng động”.”

(Phẩm Định Huệ, thứ tư)

Khi đã nhận biết tự tánh Chân Như và an trụ vững vàng trong đó, người ta sẽ biết cái dụng của tự tánh Chân Như, tức là “tự tánh Chân Như khởi niệm”. Khi ấy khởi niệm chính là Chân Như khởi niệm. Sóng có khởi, nhưng sóng ấy vẫn là nước của đại dương. Khi ấy người ta thấy thức không còn là thức mà là trí; thức phân biệt chính là trí vô phân biệt.

 

Điều này được xác quyết trong câu chuyện đối đáp giữa sư Huyền Giác và Lục Tổ:

Huyền Giác cùng Huyền Sách đến tham vấn, đi nhiễu Tổ ba vòng, rồi chống tích trượng mà đứng. 

Sư nói: Phàm là sa môn thì phải đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnhđại đức từ phương nào đến đây mà sanh ngã mạn lớn vậy? 

Huyền Giác bạch: Sanh tử là việc lớn, vô thường thì nhanh chóng. 

Sư nói: Sao chẳng thể hội vô sanh, rõ không nhanh chóng? 

Huyền Giác bạch: Thể hội tức vô sanh, thấu rõ vốn không nhanh chóng. 

Sư nói: Như vậy, như vậy. 

Huyền Giác bèn đủ oai nghi lễ lạy, rồi một lát xin cáo từ

Sư nói: Trở về nhanh chóng vậy? 

Bạch: Vốn tự chẳng động, có gì là nhanh chóng? 

Sư nói: Ai biết chẳng động? 

Bạch: Nhân giả tự sanh phân biệt

Sư nói: Ông rất đắc cái ý vô sanh

Bạch: Vô sanh há có ý sao? 

Sư nói: Không có ý thì cái gì đang phân biệt? 

Bạch: Phân biệt cũng chẳng phải ý. 

Sư nói: Hay thay! Hãy ở lại đây ít ra một đêm. 

Lúc bấy giờ gọi là Một Đêm Giác. Về sau có làm Chứng Đạo Cathịnh hành trong đời. Được sắc phong là Vô Tướng đại sư, đương thời xưng là Chân Giác

“Phân biệt cũng chẳng phải ý”, tức là thức phân biệt chính là trí vô phân biệt. Nói theo Tông Duy Thức, thì đây là sự “chuyển thức thành trí” rốt ráoThật tướng của thức chính là trí, niệm khởi của thức chính là Chân Như.

 

2/ Theo truyền thống Ấn Độ - Tây Tạng

Ở đây chỉ trích dẫn một số câu để nói lên sự tương đồng mà không giải thích.

Đại thành tựu giả Ấn Độ Tilopa, vị khai sáng tông phái thực hành Kagyu, nói:

Không phải các hình tướng bên ngoài trói buộc con, mà chính sự bám luyến bên trong vào hình tướng trói buộc con”.

- Bài nguyện Đại Ấn của Karmapa thứ ba Rangjung Dorje (1284-1339) nói:

Mọi hiện tượng là trò phô diễn như huyễn của tâm
Tâm vốn không có tâm - trống không mọi thực thể 
Không mà không diệt, biểu lộ như bất cứ sự gì
Chứng ngộ rốt ráo điều này, nguyện cắt đứt gốc rễ của nó.

Không chứng ngộ cái này, lưu chuyển mãi biển sanh tử luân hồi.
Chứng ngộ nó, Phật quả không ở đâu khác
Nó hoàn toàn không có “như thế này” hay “như thế kia”
Nguyện thấy điểm cốt yếu này của nền tảng tất cả, bản tánh của mọi sự.

 

Thấy biết là tâm, trống không cũng là tâm.
Thấu rõ là tâm, mê lầm cũng là tâm
Sanh khởi là tâm, diệt mất cũng là tâm
Nguyện cắt đứt mọi nghi ngờ về tâm…

 

Patrul Rinpoche, vị thầy Tây Tạng phái Nyingma viết trong Giáo lý Đặc biệt của đức Vua Thông tháivà Vinh Quang để giảng Ba Lời Tuyên Bố của Garab Dorje (Những Chữ Vàng, nxb Thiện Tri Thức, 2002):

III

Vào lúc đó, bất cứ tham hay sân, bất cứ vui hay buồn,
Bất cứ tư tưởng lan man nào thình lình khởi lên,
Trong trạng thái nhận biết chúng, người ta không theo chúng.
Từ đó người ta nắm giữ sự nhận biết Pháp thân về mặt giải thoát,
Bấy giờ giống như vẽ hình trên mặt nước,
Không có sự cách hở giữa tự - sanh khởi (của những tư tưởng) và tự - giải thoát của chúng.
Bất cứ cái gì khởi lên trong tâm đều thành thực phẩm cho tánh Giác rỗng không trần trụi;
Khi nào những chuyển động của tư tưởng xảy ra, chúng tiêu biểu năng lực sáng tạo của vua Pháp thân;
Không để lại dấu vết, những tư tưởng này là tự - tịnh hóa.
A-la-la!

 

Không sanh, không căn cứ, và hợp nhất, một bài ca kim cương của Milarepa, (trích Những Bài ca của tông phái thực hành, nxb Thiện Tri Thức, 2018)

 

Thật tánh của những xuất hiện là chúng không bao giờ sanh
Nếu sanh có vẻ xảy ra thì đó chỉ là bám nắm, không gì hơn
Bánh xe quay của hiện hữu không có một căn cứ hay gốc rễ
Nếu có một căn cứ hay gốc rễ, đó chỉ là một ý tưởng.

Thật tánh của tâm là hợp nhất, không thể chia tách
Nếu bạn chia tách những phương diện của nó,

bạn bị mắc vào cái thấy nào đó

Dấu hiệu của những lama chân thật là họ nắm giữ một dòng phái
Những người nhồi nhét kiến thức chỉ là những kẻ câm.

Thực tại nền tảng của tâm thì giống như bầu trời sáng tỏ và rộng mở
Nhưng những đám mây đen tư tưởng che phủ tất cả
Thế nên hãy để lời khuyên cốt lõi của lama
Là ngọn gió thổi tan chúng.

 

Dù những tư tưởng mê lầm, chính chúng là tịnh quang chiếu soi sáng rỡ
Những kinh nghiệm rực rỡ như mặt trời mặt trăng
Không phương hướngsáng tỏ chiếu sáng, không thời gian
Bạn không thể tìm thấy nó, nên bạn không thể nói nó là gì.

Rất nhiều loại xác quyết chiếu sáng như sao trên trời
Bất cứ gì sanh khởi là lạc vĩ đại nhất
Bản tánh của nó là đơn giản, sự trải rộng của Pháp thân
Sáu xuất hiện duyên sanh là trống không tự nhiên.

Dòng tự nhiên này là không cố gắng

không có một phiền não nào được nhìn thấy

Trong trạng thái nền tảng này, hãy hoàn toàn thư giãn
Trí huệ không chỗ trụ thường trực hiện diện
Ba thân không thể chia tách - phép lạ vĩ đại nhất! 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2394)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3076)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2750)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2065)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3085)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2702)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3608)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3426)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4250)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3778)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4315)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2389)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3554)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4260)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 4040)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2945)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3448)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3571)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4656)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3973)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4846)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4123)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3097)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3842)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3996)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3192)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3692)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4533)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3793)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2348)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2701)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3119)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2813)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4686)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 5018)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2924)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5509)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2933)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3383)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4462)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 5047)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4803)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3347)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4638)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4357)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6255)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3578)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4133)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6107)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5498)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4161)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33662)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3258)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4238)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4806)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3204)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3887)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3639)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6679)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2850)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant