Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục Tổ Huệ Năng: “huệ Năng Không Tài Nghề, Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”

17 Tháng Giêng 202418:23(Xem: 844)
Lục Tổ Huệ Năng: “huệ Năng Không Tài Nghề, Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”

Lục Tổ Huệ Năng:
 “Huệ Năng Không Tài Nghề,  Chẳng Dứt Trăm Tư Tưởng…”


Nguyễn Thế Đăng

 hinhphat



Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.

Có vị tăng đọc lại bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân có nghề giỏi
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh chẳng khởi tâm
Bồ đề ngày càng lớn.

Sư nghe kệ nói rằng: bài kệ ấy chưa rõ tâm địa. Nếu y theođó mà tu hành thì thêm sự trói buộc. Nhân đó khai thị một bài kệ

Huệ Năng không tài nghề
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm luôn khởi
Bồ đề làm sao lớn?

Điều nhận xét trước tiên là có những học giả - thiền giả cho rằng Thiền ưa “nói nghịch”, “nói nghịch lý”, như D. T. Suzuki trong Thiền Luận, Luận Sáu: Thiền pháp thực hành.

Bài kệ của Lục Tổ “Bồ đề bổn vô thọ…” có vẻ như “nói ngược, nói nghịch lại” bài kệ của ngài Thần Tú.

Không phải như vậy, vì dù nói cách nào Thiền cũng luôn luôn là “khai thị”, “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Trong đoạn trích ở trên, kinh cũng nói, “Lục Tổ nhân đó khai thị một bài kệ”. Nói nghịch chỉ là một loại hý luận.

Trong bài: này chúng ta tập trung vào câu “Chẳng dứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm luôn khởi”. Đây là vấn đề quan trọng, thậm chí quan trọng nhất của Phật giáo, vì Phật giáo là gì nếu không phải là “tự thanh tịnh ý mình” (tự tịnh kỳ ý), tức là câu thứ ba trong bài kệ Đức Thích Ca nhắc lại lời của chư Phật:

Các ác chớ làm
Các thiện vâng làm
Tự tịnh ý mình
Là lời chư Phật dạy.

Đạo Phật có câu “tâm viên ý mã” (tâm như khỉ vượn, ý như ngựa hoang), và thực hành pháp là phải thuần hóa cái tâm vượn ý ngựa này. Còn nếu để cho ý chạy lung tung thì cũng chính ý này đưa ta vào sanh tử luân hồiVậy thì “chẳng dứt trăm tư tưởng” phải hiểu như thế nào, để chính đó là con đường giải thoát, giác ngộ?

Trước hết cần phải hiểu là một vị thánh đã giải thoát có khởi ý tưởng, có khởi niệm không? Vị ấy có ý tưởng giờ nào đi khất thực, giờ nào trở về, giờ nào dùng bữa, giờ nào thuyết pháp, và khi thuyết pháp cần phải phù hợp với đối tượng để nói cái gì và nói thế nào hay không? Chắc chắn là vị ấy vẫn có khởi niệm, có sự chuyển động của tâm thức để sống mỗi ngày nơi đời sống thế gian này.

Có một câu chuyện, một người phỏng vấn ngồi bên cạnh ngài Krishnamurti, khi ngài đang lái xe, người ấy hỏi, “Ngài nói là ngài “vô ngã”, tại sao ngài vẫn lái xe được, vẫn biết tránh xe khác, vẫn biết đạp thắng khi đèn đỏ, vẫn biết nói chuyện khi lái xe?” Có lẽ đây là một ‘công án’ đối với người bình thường, vì chuyện bình thường của một vị thánh giải thoát thì không thể hiểu với người bình thường. Tại sao vô ngã mà vẫn sống ở đời, vẫn có hoạt động của thân, khẩu, ý, mà không phải là một bộ máy được lập trình sẳn, không thay đổi, không biết đáp ứng với hoàn cảnh thay đổi.

Chúng ta phải hiểu “chẳng dứt trăm tư tưởng, đối cảnh tâm luôn khởi” như thế nào. Phần đầu chúng ta sẽ tìm hiểu theo lời giảng dạy của Lục Tổ trong Pháp Bảo Đàn Kinh, và phần thứ hai theo những thành tựu giả của truyền thống Ấn Tạng.

 

1/ Theo Lục Tổ

Tánh Không không phải là không có gì cả, một “cái không vô ký”:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký. 

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướngmặt trời mặt trăngtinh tú, núi sông, đất đai, suối khe, cây cỏ, rừng rú, người thiện, người ác, sự thiện sự ác, thiên đường địa ngục, biển lớn, các núi Tu di, tất cả đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí huệ, thứ hai)

Đây là điều Bát nhã Tâm kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”, chứ chẳng phải trong Không không có sắc, không có gì cả.

“Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”: bản tánh hay tự tánh của con người là tánh Không. Khi nói đến pháp môn chỉ thẳng tự tánh ngài xác định tự tánh tánh Không là Vô niệmVô tướngVô trụ:

Thiện tri thức! Pháp môn xưa nay của ta trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụlàm gốc”.

(Phẩm Định Huệ, thứ tư)

Như vậy, tự tánh con ngườibản tánh của tâm, là tánh Khôngvô niệmvô tướngvô trụ.

Vô niệm không nên hiểu đơn sơ là không có niệm, không có ý nghĩTrái lại vô niệm mang một ý nghĩa tích cực sinh động phi thường, vì vô niệm chính là trí huệ bát nhã:

Thiện tri thức! Trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết bản tâm mình. Nếu rõ bản tâm tức là vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát nhã tam muộiBát nhã tam muội tức là vô niệm

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết tất cả pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám chỗ nào. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, dùng suốt thông không trệ, tức là Bát nhã tam muộitự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm

Nếu trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến

Thiện tri thức! Ngộ pháp vô niệm thì muôn pháp suốt thông. Ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giớichư Phật. Ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật”.

(Phẩm Trí huệ, thứ hai)

Vô niệm không phải là “trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến”. Vô niệm là bản tánh Không của tâm, là nền tảng Không của tâm, trên đó có sự hoạt động của thức nơi các căn, các trần, tức là hoạt động của niệm: “Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm tạp, đến đi tự do, dùng suốt thông không trệ, tức là Bát nhã tam muộitự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm”.

Vô niệm không phải là không có pháp, không có các hiện tượng, mà là “muôn pháp suốt thông”

Thức hoạt động, có khởi niệm nhưng vẫn suốt thông, không chướng ngại bởi ngã và pháp. Sự hoạt độngsanh khởi trên nền tảng tánh Không vô sanh của tâm, nên động mà không động, khởi mà không khởi, sanh mà không sanh. Niệm là niệm của bản tâm, của tự tánh, mà bản tâm tự tánh là vô niệmvô tướngvô trụ, nghĩa là vốn giải thoát, nên niệm cũng giải thoát.

Hơn nữa, đối với người thấy tánh, thấy bản tánh của tâm, thấy thật tướng của niệm, thì niệm chẳng phải là sai lầm, chẳng phải là tội lỗi gì, vì niệm chính là sự khởi dụng của Chân Như.

Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân NhưChân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay. 

Thiện tri thức! Tự tánh Chân Như khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hay biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn hằng tự tại

Thế nên kinh nói: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp mà trong đệ nhất nghĩa chẳng động”.”

(Phẩm Định Huệ, thứ tư)

Khi đã nhận biết tự tánh Chân Như và an trụ vững vàng trong đó, người ta sẽ biết cái dụng của tự tánh Chân Như, tức là “tự tánh Chân Như khởi niệm”. Khi ấy khởi niệm chính là Chân Như khởi niệm. Sóng có khởi, nhưng sóng ấy vẫn là nước của đại dương. Khi ấy người ta thấy thức không còn là thức mà là trí; thức phân biệt chính là trí vô phân biệt.

 

Điều này được xác quyết trong câu chuyện đối đáp giữa sư Huyền Giác và Lục Tổ:

Huyền Giác cùng Huyền Sách đến tham vấn, đi nhiễu Tổ ba vòng, rồi chống tích trượng mà đứng. 

Sư nói: Phàm là sa môn thì phải đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnhđại đức từ phương nào đến đây mà sanh ngã mạn lớn vậy? 

Huyền Giác bạch: Sanh tử là việc lớn, vô thường thì nhanh chóng. 

Sư nói: Sao chẳng thể hội vô sanh, rõ không nhanh chóng? 

Huyền Giác bạch: Thể hội tức vô sanh, thấu rõ vốn không nhanh chóng. 

Sư nói: Như vậy, như vậy. 

Huyền Giác bèn đủ oai nghi lễ lạy, rồi một lát xin cáo từ

Sư nói: Trở về nhanh chóng vậy? 

Bạch: Vốn tự chẳng động, có gì là nhanh chóng? 

Sư nói: Ai biết chẳng động? 

Bạch: Nhân giả tự sanh phân biệt

Sư nói: Ông rất đắc cái ý vô sanh

Bạch: Vô sanh há có ý sao? 

Sư nói: Không có ý thì cái gì đang phân biệt? 

Bạch: Phân biệt cũng chẳng phải ý. 

Sư nói: Hay thay! Hãy ở lại đây ít ra một đêm. 

Lúc bấy giờ gọi là Một Đêm Giác. Về sau có làm Chứng Đạo Cathịnh hành trong đời. Được sắc phong là Vô Tướng đại sư, đương thời xưng là Chân Giác

“Phân biệt cũng chẳng phải ý”, tức là thức phân biệt chính là trí vô phân biệt. Nói theo Tông Duy Thức, thì đây là sự “chuyển thức thành trí” rốt ráoThật tướng của thức chính là trí, niệm khởi của thức chính là Chân Như.

 

2/ Theo truyền thống Ấn Độ - Tây Tạng

Ở đây chỉ trích dẫn một số câu để nói lên sự tương đồng mà không giải thích.

Đại thành tựu giả Ấn Độ Tilopa, vị khai sáng tông phái thực hành Kagyu, nói:

Không phải các hình tướng bên ngoài trói buộc con, mà chính sự bám luyến bên trong vào hình tướng trói buộc con”.

- Bài nguyện Đại Ấn của Karmapa thứ ba Rangjung Dorje (1284-1339) nói:

Mọi hiện tượng là trò phô diễn như huyễn của tâm
Tâm vốn không có tâm - trống không mọi thực thể 
Không mà không diệt, biểu lộ như bất cứ sự gì
Chứng ngộ rốt ráo điều này, nguyện cắt đứt gốc rễ của nó.

Không chứng ngộ cái này, lưu chuyển mãi biển sanh tử luân hồi.
Chứng ngộ nó, Phật quả không ở đâu khác
Nó hoàn toàn không có “như thế này” hay “như thế kia”
Nguyện thấy điểm cốt yếu này của nền tảng tất cả, bản tánh của mọi sự.

 

Thấy biết là tâm, trống không cũng là tâm.
Thấu rõ là tâm, mê lầm cũng là tâm
Sanh khởi là tâm, diệt mất cũng là tâm
Nguyện cắt đứt mọi nghi ngờ về tâm…

 

Patrul Rinpoche, vị thầy Tây Tạng phái Nyingma viết trong Giáo lý Đặc biệt của đức Vua Thông tháivà Vinh Quang để giảng Ba Lời Tuyên Bố của Garab Dorje (Những Chữ Vàng, nxb Thiện Tri Thức, 2002):

III

Vào lúc đó, bất cứ tham hay sân, bất cứ vui hay buồn,
Bất cứ tư tưởng lan man nào thình lình khởi lên,
Trong trạng thái nhận biết chúng, người ta không theo chúng.
Từ đó người ta nắm giữ sự nhận biết Pháp thân về mặt giải thoát,
Bấy giờ giống như vẽ hình trên mặt nước,
Không có sự cách hở giữa tự - sanh khởi (của những tư tưởng) và tự - giải thoát của chúng.
Bất cứ cái gì khởi lên trong tâm đều thành thực phẩm cho tánh Giác rỗng không trần trụi;
Khi nào những chuyển động của tư tưởng xảy ra, chúng tiêu biểu năng lực sáng tạo của vua Pháp thân;
Không để lại dấu vết, những tư tưởng này là tự - tịnh hóa.
A-la-la!

 

Không sanh, không căn cứ, và hợp nhất, một bài ca kim cương của Milarepa, (trích Những Bài ca của tông phái thực hành, nxb Thiện Tri Thức, 2018)

 

Thật tánh của những xuất hiện là chúng không bao giờ sanh
Nếu sanh có vẻ xảy ra thì đó chỉ là bám nắm, không gì hơn
Bánh xe quay của hiện hữu không có một căn cứ hay gốc rễ
Nếu có một căn cứ hay gốc rễ, đó chỉ là một ý tưởng.

Thật tánh của tâm là hợp nhất, không thể chia tách
Nếu bạn chia tách những phương diện của nó,

bạn bị mắc vào cái thấy nào đó

Dấu hiệu của những lama chân thật là họ nắm giữ một dòng phái
Những người nhồi nhét kiến thức chỉ là những kẻ câm.

Thực tại nền tảng của tâm thì giống như bầu trời sáng tỏ và rộng mở
Nhưng những đám mây đen tư tưởng che phủ tất cả
Thế nên hãy để lời khuyên cốt lõi của lama
Là ngọn gió thổi tan chúng.

 

Dù những tư tưởng mê lầm, chính chúng là tịnh quang chiếu soi sáng rỡ
Những kinh nghiệm rực rỡ như mặt trời mặt trăng
Không phương hướngsáng tỏ chiếu sáng, không thời gian
Bạn không thể tìm thấy nó, nên bạn không thể nói nó là gì.

Rất nhiều loại xác quyết chiếu sáng như sao trên trời
Bất cứ gì sanh khởi là lạc vĩ đại nhất
Bản tánh của nó là đơn giản, sự trải rộng của Pháp thân
Sáu xuất hiện duyên sanh là trống không tự nhiên.

Dòng tự nhiên này là không cố gắng

không có một phiền não nào được nhìn thấy

Trong trạng thái nền tảng này, hãy hoàn toàn thư giãn
Trí huệ không chỗ trụ thường trực hiện diện
Ba thân không thể chia tách - phép lạ vĩ đại nhất! 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1297)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1359)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1588)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1723)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1682)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1080)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1574)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1553)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1735)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2013)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1622)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1435)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1445)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1627)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1214)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1334)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1345)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1743)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1698)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3106)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1885)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1422)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1260)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1344)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1465)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1362)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1959)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1740)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1942)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1879)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2443)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1829)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2194)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2308)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2367)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1899)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2024)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2090)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2023)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2653)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1947)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1997)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1961)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2221)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2370)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2064)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2184)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1944)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1976)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2472)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2383)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4133)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2544)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3275)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2526)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2099)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1839)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3353)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant