Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng Đoàn Là Gì?

08 Tháng Giêng 202416:40(Xem: 908)
Tăng Đoàn Là Gì?
Tăng Đoàn Là Gì?

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén

Lozang Ngodrub  
Võ Thư Ngân 


khat thuc

Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; 
Võ Thư Ngân hiệu đính.


Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1370)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1072)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1245)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1719)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1653)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1552)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1134)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1510)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1479)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1389)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1441)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1775)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2127)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1492)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1148)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1493)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2159)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1533)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1615)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1458)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3070)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1447)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1460)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1783)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1755)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1692)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1545)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2711)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1669)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1663)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1478)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1496)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1670)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1608)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1488)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1480)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1557)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2256)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1591)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1571)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1699)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1907)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1582)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1453)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1707)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1470)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1780)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2451)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1519)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2019)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1743)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1814)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1672)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1999)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1727)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1499)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1771)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1628)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1601)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1389)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant