Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

09. Tám trai giới theo kinh tạng Pàli

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6791)
09. Tám trai giới theo kinh tạng Pàli


THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003


TÁM TRAI GIỚI
(
Theo kinh tạng Pali)


Chú thích: Trích Tăng Chi Bộ kinh của HT. Thích Minh Châu dịch, các tiểu mục do người sưu tập đặt.

* Nguyên nhân đức Phật nói giới Bát quan trai

"Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại nước Xá-vệ, chỗ Đông viên, lâu đài của mẹ nàng Migara. Rồi Visakha, mẹ của Migara, trong ngày Uposatha (Bố-tát trai giới) đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với bà Visakha: Này bà Visakha, từ đâu Bà đi đến đây sáng sớm như thế này?

- Bạch Thế Tôn, hôm nay con đi thọ trai giới.

* Phân biệt các giới Bát quan trai

- Này Visakha, có ba loại trai giới. Thế nào là ba? Trai giới người chăn bò, trai giới Ni-kiền-tử và trai giới bậc Thánh.

1. Định nghĩa Bát quan trai giới của người chăn bò.

- Như thế nào là trai giới người chăn bò?

Ví như, này Visakha, người chăn bò, vào buổi chiều lùa các con bò về cho chủ. Nó suy nghĩ: Hôm nay, đàn bò đã ăn cỏ tại chỗ này và chỗ kia, đã uống nước tại chỗ này và chỗ kia. Ngày mai, đàn bò sẽ ăn cỏ tại chỗ này và chỗ kia, sẽ uống nước tại chỗ này và chỗ kia.

Cũng vậy, này Visakha, ở đây có người giữ trai giới suy nghĩ: Hôm nay, ta đã ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng kia, ta sẽ ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ ăn mềm kia. Như vậy, nó sống cả ngày với tâm đồng hành với tham dục. Như vậy, này Visakha, là trai giới người chăn bò.

2. Định nghĩa Bát quan trai giới của Ni-kiền-tử

Và này Visakha, thế nàolà trai giới các Ni-kiền-tử (Nigantha)?

Ở đây, này Visakha, có hạng Sa-môn tên là Nigantha (Ni-kiền-tử), họ khích lệ đệ tử như sau: Ông hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Đông, ngoài một trăm do tuần. Hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh loại sống ở phương Tây, ngoài một trăm do tuần... sống ở phương Bắc... sống ở phương Nam, ngoài một trăm do tuần. Như vậy họ khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn đối với một số sinh loại mà thôi; họ không khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn, đối với một số sinh loại khác. Trong ngày Bố-tát, họ khích lệ đệ tử như sau: Này các người, hãy quăng bỏ tất cả các áo quần và nói như sau: Ta không có bất cứ vật gì ở đâu, bất cứ chỗ nào. Bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không có cái gì là của ta. Nhưng cha và mẹ của nó biết nó là con của mình. Và nó biết họ là cha mẹ của nó. Vợ và con biết nó là chồng, là cha của mình, và nó biết họ là vợ, con của nó. Các người nô tỳ làm công biết nó là chủ của họ. Và nó biết họ là nô tỳ, là nhân viên của nó. Như vậy, trong thời gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật, trong thời gian ấy, lại được khích lệ bằng điều nói láo. Đây Ta tuyên bố là một sự nói láo. Sau khi đêm ấy đã qua, nó thọ hưởng tất cả tài sản chưa đem cho. Đây Ta tuyên bố là lấy của không cho. Như vậy này Visakha, là lễ Uposatha của các Ni-kiền-tử. Được sống thực hành như vậy, này Visakha, Upasatha của các Nigatha không quả lớn, không lợi ích lớn, không chói sáng lớn, không ánh sáng lớn.

3. Định nghĩa Bát quan trai giới của bật Thánh

Và này Visakha, thế nào là trai giới các bậc Thánh? Chính là làm thanh tịnh các loại tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là làm thanh tịnh tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi? [*]

[*] Upakkamena: Với phương pháp thích nghi theo cá nhân. Theo Tập Sớ, đức Phật ví như cái đầu; Pháp là thân; Tăng là quần áo; Giới là tấm gương, và chư Thiênvàng ròng.

3a) Thánh đệ tử niệm Phật

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm Phật: đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, trí đức, hạnh đức đầy đủ, bậc Thiện Thệ, hiểu biết thế gian, bậc Vô thượng, bậc Đánh xe Điều ngự những ai đáng được điều ngự, bậc Thầy của chư Thiênloài Người, Phật, Thế Tôn. Do vị ấy niệm Như lai, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visakha, đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Do duyên bột nhồi, do duyên đất sét, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visakha, là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vây, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm Như lai: Đây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn. Do vị ấy niệm Như lại, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visakha, đây là Thánh đệ tử thực hành trai điều tịnh giới (Brahma), vị ấy cũng sống với tịnh giới; do duyên tịnh giới [*], tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sinh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tâm. Như vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

[*] Ở đây, Brahma dịch là Tịnh giới, có nghĩa la xa rời các nhơn ác thường tu tập thanh tịnh ba nghiệp về thân, khẩu, ý.

Này Visakha, tâm uế nghiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visakha, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

3b. Thánh đệ tử niệm Pháp

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm Pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như này Visakha, thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi? Do duyên sottim (một thứ đá bọt dùng để chà lưng) [*], do duyên bột tắm, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visakha, là thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

[*] Xem M.ii, 46. Theo Tập Sớ, đá Kuruvindaka được nghiền ra thành bột. Làm thành viên tròn với sáp, được đụt lỗ và so vào dây. Hai tay cầm hai đầu dây rồi kéo qua kéo qua kéo lại cọ sát trên lưng.

Và như thế nào, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visakha, thánh đệ tử niệm Pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng... được người trí tự mình giác hiểu. Do người ấy niệm Phật tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visakha, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành Pháp trai giới, vị ấy sống với Pháp trai giới, vị ấy sống với Pháp. Chính nhờ Pháp, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch.

Này Visakha, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi, này Visakha, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

3c. Thánh đệ tử niệm Tăng

Ở đây này Visakha, Thánh đệ tử niệm Tăng; Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chân chánh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Do vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visakha, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhơ phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ thích nghi?

Do duyên Usam (đất mặn) [*], do duyên Kharam (nước tro), do duyên phân bò, do duyên nước, do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visakha, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visakha, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

[*] Usan Karan ca. Tập sớ Usumam (sức nóng). Xem S. iii 131.

Và này Visakha, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm Tăng: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn... là phước điền vô thượng ở đời. Nhờ vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanhkhởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visakha, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành chúng Tăng trai giới, sống với chúng Tăng. Chính nhờ chúng Tăng, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi. Và này Visakha, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạhc nhờ phương pháp thích nghi?

3d.Thánh đệ tử niệm giới

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm giới; không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị ô nhiễm, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định. Vị ấy nhờ niệm giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanhkhởi, các phiền não của tâm được đoạn tân. Ví như, này Visakha, một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phuơng pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?

Do duyên dầu, do duyên tro, do duyên bàn chải lông [*] và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visakha, là tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi.

[*] Lông ngựa hay lông khỉ

Và này Visakha, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm giới... đưa đến thiền định. Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận, này Visakha, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành Giới Uposatha, sống chung với Giới. Nhờ Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận, như vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi. Và này Visakha, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi?

3e. Thánh đệ tử niệm Thiên

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm Thiên [*]. Có bốn Thiên vương thiên: có chư Thiên cõi trời Ba-mươi-ba; có chư Thiên Yama (Da-mạ); có chư Thiên Tusita (Đâu-suất); có chư Thiên Hóa-lạc; có chư Thiên Tha-hóa-tự-tại; có chư Thiên Phạm-chúng; có chư Thiên cao hơn nữa.

Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta.

Đầy đủ với Giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta.

Đầy đủ với nghe Pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy, cũng có đầy đủ nơi ta.

Đầy đủ với Thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta.

Đầy đủ với Tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta.

Khi vị ấy niệm Tín, Giới, nghe Pháp, Thí và Tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận.Ví như này Visakha, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.

[*] Ở đây Devata gồm cả hai deva và devata. Ở đây chỉ cho các chư Thiên cao hơn, trừ Bhummadava (Địa thần) thấp nhất. Các chư Thiên được đề cập đến. Xem S. v 420 và D. ii (Mahasamyattasutta).

Và này Visakha, thế nào là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh, nhờ phương pháp thích nghi?

Do duyên lò, do duyên đất, muối, do duyên phấn đỏ, do duyên ống bể, do duyên cái kìm và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visakha, là vàng bị uế nhiễm được làm thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visakha, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.

Và này Visakha, thế nào là tâm uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phươngpháp thích nghi?

Ở đây, này Visakha, Thánh đệ tử niệm Thiên, có chư Thiên, bốn Thiên vương, có chư Thiên cõi trời Ba-muơi-ba... có chư Thiên cao hơn nữa, đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy mạng chung ở chỗ này được sanh ở chỗ ấy. Ta cũng có lòng tin như vậy. đầy đủ với Giới... với nghe Pháp... với Thí... với trí tuệ như vậy, chư Thiên ấy mạng chung ở chỗ này, đuợc sanh tại chỗ ấy: Ta cũng có trí tuệ như vậy. Khi vị ấy niệm Tín, Giới, nghe Pháp, Thí và Tuệ của tự mình và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Đây gọi là Thánh đệ tử thực hành Thiên trai giới, sống chung với chư Thiên. Nhờ chư Thiên, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visakha, là tâm uế nhiễm được làm cho thanh tịnh, nhờ phương pháp thíchnghi.

* Sống theo tám giới của bậc Thánh.

1. Thánh đệ tử ấy, này Visakha, suy tư như sau: cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh và các loài hữu tình, Cũng vậy, đêm nay và ngày nay ta sống từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tát cả chúng sinh và loài hữu tình. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và sẽ thực hành Trai giới.

2. Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.

3. Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ tà hạnh, tịnh tu phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy tà hạnh, tịnh tu phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.

4.Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.

5. Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay ta sống từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.

6. Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời, về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.

7.Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán tránh xa không xem múa hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay ta sống tránh xa không xem múa hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới.

8. Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ.Cũng vậy, đêm nay và ngày nay ta từ bỏ giường cao và giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn, nằm trên giường thấp, giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Bề chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và sẽ thực hành trai giới

Như vậy, này Visakha, là Thánh trai giới. Thực hành Thánh trai giới, này Visakha, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn.

* Kết quả lớn lao do tu tám trai giới đưa lại:

Quả lớn như thế nào? Lợi ích lớn như thế nào? Chói sáng lớn như thế nào? Ánh sáng lớn như thế nào?

Ví như, này Visakha, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên 16 quốc độ, tràn đầy bảy báu như Anga, Kasi, Kosala, Vajji, Malla, Geti, Vanga, Kuru, Pancala, Maccha, Surasena, Assaka, Avanti, Gandhara, Kamboha [*], nhưng chủ quyền ấy khôngbằng 1/16 của một trai giới (Uposatha) thực hành đầy đủ cả tám mặt.Vì cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này Visakha, là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc của chư Thiên

[*] Các quốc độ này diễn tả trong tập "Buddhist India" của Rhys David, tr, 23.., trong tập "The Buddha" của E.J Thomas. Các dân tộc Anga ở phía Đông Magadha, Magadha nay gọi là Bihar; các Kasi ở xung quanh Benares; các Kosala ở Nepal, kinh đô là Savatthi; các Vajji gồm có 8 dòng họ, như Licchavi là viidcha ở không xa vesali; các mMallà ở Kusinàrà và Pàrà; các Ceti (Codi) có lẽ Nepal; các Vansà (Hay Vaccha) có lẽ ỡ Bengal; các Kurù ở gần Dilhi: các Pancàlà ỏ phía Đông Kurù; các Macchà (Matsỳa)ở phía nam Kurù: các Surasenna ở Tây Nam Macchà; các Assaka ở trên sông Godhàvari; Avanti với kinh đô là ujjenti các Asaka ở trên sông Godhàvari; Avanti với kinh đô Ujjeni; Gandhàrà (nay là Kandahar (và Kambojà, phía Tây Bắc.

Đời sống của con người so với Tứ thiên vương:

Năm mươi năm của một đời người, này Visakha, bằng một đêm một ngày của chư Thiên, của Tứ thiên vương. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng: mười hai tháng như vậy làm thành một tháng mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Năm mươi năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên Tứ thiên vương. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng: Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc của chư Thiên.

Đời sống con người so với chư Thiên cõi Trời Ba-mưoi-ba:

Một trăm năm của một đời người, này Visakha, bằng một đêm một ngày của chư Thiêncõi trời Ba-mươi-ba. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Một ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiêncõi trời Ba-mươi-ba. Sự kiện này có xảy ra, này Visakha, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành trai giới (uposatha) đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mang chung, được sanh cộng trú với chư Thiên cõi trời Ba-mươi-ba. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng; Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài Người, so sánh với hanh phúc của chư Thiên.

Đời sống con người so sánh với cõi trời Dạ-ma:

Hai trăm năm của một đời người, này Visakha, bằng một đêm một ngày của chư Thiêncõi trời Dạ-ma. Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng... làm thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành một thọ mạng chư Thiêncõi trời Dạ-ma. Sự kiện này có xảy ra, này Visakha, ở đây... được sanh cộng trú với chư Thiêncõi trời Dạ-ma. Chính dựa trên trường hợp này... với hạnh phúc chư Thiên.

Đời sống con người so với chư Thiên Đâu-suất:

Bốn trăm năm của một đời người, này Visakha, bằng một đêm một ngày của chư Thiêncõi trời Tusita (Đâu-suất). Ba mươi đêm như vậy làm thành một tháng... làm thành một năm.

Bốn ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiêncõi trời Tusia. Sự kiện này có xảy ra... với hạnh phúc chư Thiên.

Đời sống con người so với chư Thiên Hóa lạc:

Tám trăm năm của một đời người, ngày Visakha, bằng một đêm một ngày của hư Thiên ở cõi trời Hóa Lạc... Tám ngàn năm chư Thiên như vây làm thành thọ mạng của chư Thiêncõi trời Hóa Lạc. Sự kiện này có xảy ra... với hạnh phúc chư Thiên.

Đời sống con người so với chư Thiên Tha Hóa Tự Tại:

Mười sáu trăm năm của một đời người, này Visakha, bằng một đêm một ngày của chư Thiêncõi trời Tha Hóa Tự Tại. Ba mươi đêm như vậy làm thành một năm. Mười sáu ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Sự kiện này có xảy ra, này Visakha, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành Uposatha đầy đủ cả tám măt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiêncõi trời Tha Hóa Tự Tại. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: Nhỏ nhoi thaylà vương quyến của loài Người, so sánh với hạnh phúc của chư Thiên.

* Kết luận: Đức Phật khuyên chúng sinh;

Chớ giết hại sinh loại,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói lời nói láo,
Chớ uống thức rượu say.
Từ bỏ phí phạm hạnh,
Từ bỏ không dâm dục,
Không ăn vào ban đêm,
Tránh không ăn phí thời
Không mang các vòng hoa,
Không dùng các hương liệu,
Hãy nằm trên tấm thảm,
Được trải dài trên đất.

Chính hạnh trai giới này
Được gọilà tám phần,
Do đức Phật nói lên,
Đưa đến đoạn tận khổ.
Mặt trăngmặt trời,
Được thấy là lành tốt,
Chỗ nào chúng đi tới,
Chúng chói sáng hào quang,
Chúng làm mây sáng chói,
Giữa hư không chúng đi,
Trên trời chúng chói sáng,
Sáng rực mọi phương hướng

Trong khoảng không gian ấy,
Tài sản được tìm thấy,
Trân châu và ngọc báu,
Lưu ly, đá cầu may,
Vàng cục (1) trong lòng đất
Hay loại Kancana (2)
Cùng loại vàng sáng chói,
Được gọi Hataka (3)
Tuy vậy chúng trị giá
Chỉ một phần mười sáu,
Với hạnh giữ trai giới,
Đầy đủ cả tám mặc,
Kể cả ánh sáng trăng,
Với cả vòm trời cao.

Vậy người nữ, người nam
Hãy giữ theo tịnh giới,
Hạnh Bố-tát trai giới
Đầy đủ cả tám mặt,
Làm các thiện công đức,
Đem lại nhiều an lạc.
Được sanh lên cõi trời,
Không bị ngưòi cười chê!

(1) Singi: như sừng bò
(2) Kancana: tìm được trong núi
(3) Hataka: vàng do kiến tha




 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21312)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 22094)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 20537)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 43146)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 22305)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 42591)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 25723)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 25313)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 19777)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 30046)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 22527)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 35940)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 22616)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 32036)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 13632)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 27777)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 20357)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 18555)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 28164)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 20363)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 20173)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 30980)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 20207)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 35570)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 41123)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 33598)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 19749)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 27143)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 20886)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 19211)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 25338)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18966)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 34740)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 18528)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 18531)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16980)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 19522)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 21832)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 19509)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 21143)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 16220)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 22147)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15967)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 16605)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 14046)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 15585)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 16005)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 31472)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 13818)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 15694)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM