Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Pháp Hải

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13925)
Kinh Pháp Hải


PHẬT NÓI KINH PHÁP HẢI


Đại Chánh Tân Tu số 0034 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa môn Thích Pháp Cự

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

 

Nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa ở trên bờ ao Hán Khư Lợi, nước Chiêm Ba, cùng đông đủ chúng đại Tỳ kheo. Bấy giờ vào ngày thứ mười lăm trong tháng, là lúc thuyết giới. Ðức Phật ngồi thật lâu mà vẫn im lặng, không thuyết giới. Thị giả A Nan liền sửa lại y phục, quỳ xuống bạch đức Phật rằng:

–Ðầu đêm đã qua, nửa đêm sắp đến, đại chúng tập hợp đã lâu, mong đức Thế Tôn không từ mệt mỏi, xin đức Thế Tôn thuyết giới.

Ðức Phật vẫn ngồi im lặng.

Chúng tăng ngồi đã lâu, bấy giờ có một Tỳ kheo tên là A Nhã Ðô Lô, lại sửa y phục, quỳ xuống bạch đức Phật:

–Ðầu đêm, nửa đêm đã qua, bây giờ gà sắp gáy, chúng tăng nhóm họp đã lâu, mong đức Thế Tôn không từ mệt mỏi thuyết giới cho chúng tăng.

Ðức Phật vẫn im lặng.

Lại bạch rằng:

–Bạch đức Thế Tôn, sao mai đã mọc, thời giờ sắp qua.

Ðức Phật dạy:

-Này Tỳ kheo, hãy lắng nghe trong chúng tăng có kẻ bất tịnh cho nên ta không thể thuyết giới được.

Hiền giả Ðại Mục Kiền Liên trong lòng suy nghĩ: “Ta nên định tâm quán xem ai là kẻ bất tịnh”. Ngài Mục Kiền Liên bạch đức Phật:

–Con muốn dùng định tâm quán xem ai là người bất tịnh. Nếu là bất tịnh, con sẽ bảo kẻ ấy ra khỏi chúng.

Ðức Phật bảo:

–Ngươi muốn dùng định tâm quán xem ai là kẻ bất tịnh rồi bảo kẻ ấy ra khỏi chúng. Lời nói ấy rất hay, vậy hãy quán sát đi.

Ngài Mục Liên liền dùng định tâm quán sát thấy người đệ tử phạm trọng giới, ngài từ định tâm đứng dậy, đến trước vị Tỳ kheo phạm giới nói rằng:

–Ngươi làm sa môn, phải tôn thờ giới, giới là căn bản, giới giống như cái đầu của con người, giới hạnh của sa môn cần phải thanh bạch giống như nước, như ngọc, đó là tòa ngồi của Như Lai, là chỗ hội tụ của Hiền Thánh, là cứ điểm để vượt qua biển khổ, là chỗ nhóm họp của các vị đạo đức thanh tịnh. Tòa ngồi này giống như rừng chiên đàn, ngươi đã dùng mùi hôi thối của cây Y lan làm đảo loạn sự chơn chánh.

Ngài Mục Liên dùng tay tự kéo người ấy đi ra ngoài và nói:

–Ngươi là người phế thải, không được tham dự vào sự tập hợp thanh tịnh của đại chúng đức Như Lai, không được dùng cái nhà cầu hôi thối, ô uế dự vào sự tập hợp lớn của đại tăng. Biển cả không nhận xác chết hôi thối, ngươi hãy tự suy nghĩ đi, đừng để ô uế chúng Hiền Thánh.

Người ô uế đã đi ra, Ngài Mục Liên bạch rằng:

–Người uế trược đã đi xa, chúng tăng đã thanh tịnh, cúi mong đức Thế Tôn thuyết giới.

Ðức Thế Tôn vẫn cứ im lặng. Ngài Mục Liên thấy lạ, quán sát bốn bên, thấy ở tòa trên, Tỳ kheo vừa rồi vẫn còn ngồi ở tòa, ngài Mục Liên ra lệnh:

–Ngươi là người phế thải, tại sao không tự đi ra? Tội uế ngươi nặng, ngồi ở tòa này mà làm gì?

Ngài Mục Liên khiển trách nặng, vị ấy mới ra khỏi tòa rồi đi. Ngài Mục Liên lại thưa:

–Bạch Thế Tôn, người ô uế đã ra rồi, đại chúng đã thanh tịnh không còn ô uế nữa, cúi mong đức Thế Tôn thuyết giới, khiến cho chúng tăng được tu tịnh nghiệp.

Ðức Phật bảo ngài Mục Liên:

–Từ nay về sau ta không thuyết giới nữa. Các ngươi có thể tự thuyết giới lấy. Nếu ta thuyết giới, người phạm giới ở trong chúng vẫn im lặng, không tự phát lồ tội lỗi mà vẫn dự vào tòa của Như Lai, đó là im lặng vọng ngữ. Nếu im lặng vọng ngữ thì đầu kẻ ấy bể làm bảy mảnh. Ðức Như Lai thuyết giới cho đại chúng đâu phải là chuyện dễ. Từ nay về sau ngươi hãy tự thuyết giới.

Ngài Mục Liên bạch Phật:

–Ðệ tử nghe đạo, trước tiên nhờ đức Như Lai giáo hóa cho, chớ không phải do đệ tử tự ngộthành đạo. Như Lai là bậc Thánh đức, sâu nặng như trời đất. Lời nói của Ngài thì chơn thật mà cốt yếu, đệ tử dụng tập mà đắc thành đạo quả. Ðức Như Lai giống như trời mưa, trăm loài lúa, cây cỏ tươi tốt, không có loài nào không nhờ Ngài mà được phồn vinh. Ðệ tử đức mỏng, đạo nhỏ, người không tin phục. Thế Tôn thương xót cho kẻ phàm tục đui điếc mà khiến cho tất cả được an ổn, được đức tin, được chơn chánh, ngỏ hầu cứu vớt cái chí của họ.

Ngài Mục Liên ân cần tha thiết thỉnh cầu cho đến ba, bốn, năm lần. Ðức Thế Tôn bảo ngài Mục Liên rằng:

–Ngươi vì tất cả mà thỉnh cầu đức Như Lai ân cần cho đến bốn, năm lần, nay ta sẽ vì các ngươi mà thuyết giới. Tăng Pháp của ta giống như đại hải, có tám đức. Các ngươi hãy lắng nghe:

1. Nước trong đại hải không đầy không vơi, pháp của ta cũng vậy, không đầy không vơi. Ðó là đức thứ nhất.

2. Nước thủy triều trong đại hải hễ đúng giờ thì dâng, không có thất thường; bốn bộ chúng thọ giới của ta không phạm cấm giới vi phạm thường pháp. Ðó là đức thứ hai.

3. Nước của đại hải chỉ có một vị, không có nhiều vị, hoàn toàn là vị mặn, pháp của ta cũng như vậy, chỉ có vị thiền định, chí cầu tịch định, đạt đến thần thông vậy. Vị của Tứ Ðế, chí cầu bốn đạo để mở sự trói buộc vậy. Vị của Ðại thừa, chí cầu đại nguyện nhằm độ mọi người vậy. Ðó là đức thứ ba.

4. Ðại hải đã sâu mà rộng, không có hạn lượng, Tăng Pháp cũng vậy, hết sức thâm sâu vi diệu, tám phương là lớn nhưng không lớn bằng Tăng Pháp, Tăng Pháp rất là to lớn. Ðó là đức thứ tư.

5. Ở trong đại hảikim ngân, lưu ly, thủy tinh, san hô, xa cừ, mã não, ma ni rất tuyệt diệu rất sung mãn, trong Tăng Pháp của ta có ba mươi bảy phẩm đạo quý báu vi diệu, thần túc, sống lâu, bay khắp mười phương, không chỗ nào mà không thỏa thích, chỉ trong nháy mắt mà đã bay khắp cõi Phật, đến cõi thù thắng, có thể lấy đạo của mình hóa độ quần sanh, thanh tịnh Phật độ mình. Ðó là đức thứ năm.

6. Ở trong đại hải là chỗ ở của các thần Long như: Ta Kiệt La long vương, A Nậu Ðạt Nan Ðầu Hòa La Ma Na Tư Y La Mạt. Các rồng như vậy có diệu đức khó so lường, có thể tạo ra cung trời, các loại phẩm vật, không ai mà không khát ngưỡng. Tăng Pháp của ta cũng lại như vậy, có bốn đôi tám bậc, mười hai hiền giả, Bồ tát đại sĩ ra công giáo hóa vô cùng thiện, vô cùng mỹ. Ðó là đức thứ sáu.

7. Biển lớn nuốt trọn trăm sông, vạn dòng nước, nước của sông Hằng, không đâu mà không đổ về, suốt ngày suốt đêm không thể gọi là đầy vơi hay tăng giảm chi cả. Trong Tăng Pháp của ta cũng như vậy, dòng Phạm Thích nhập vào Tăng Pháp, bốn họ vọng tộc, hoặc Thích, hoặc Phạm, dòng dõi vua chúa, xả bỏ hào quý thế gian, đi đến nhập vào chánh đạo hóa; công sư, dòng họ nhỏ cũng nhập vào chánh đạo hóa. Chủng tộc tuy khác, đến học tập nơi đại đạo, đồng có một vị, đâu chẳng phải là Thích tử. Ðó là đức thứ bảy.

8. Ðại hải thanh tịnh, không nhận tử thi, không có các uế trược, chỉ thọ nhận các loài trong biển mà thôi. Tăng Pháp của ta thanh tịnh, cũng như đại hải không chấp nhận kẻ không có phạm hạnh thanh tịnh, vi phạm giới cấm, ô uế, nhất thiết không thọ nhận loại người ấy, phải vứt bỏ, phải xa lánh, giống như biển cả không thọ nhận tử thi vậy. Ðó là đức thứ tám.

Ðức Phật bảo ngài Mục Liên:

–Ðại chúng của Như Lai hoàn toàn thanh tịnh, nếu phạm nghiệp cấm giới thì không phải dòng họ Thích nữa. Do đó ta không thuyết giới vậy. Các ngươi hãy khéo cùng nhau sắc chế giới luật cho nhau, đừng để chánh pháp bị hủy diệt.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo hoan hỷ phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH PHÁP HẢI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13700)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13772)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15087)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17694)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17111)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14443)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16744)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18616)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19045)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18855)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21167)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14791)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39168)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14404)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19365)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14707)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16139)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14701)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15230)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14903)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15559)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39122)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14118)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24509)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14384)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19443)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18010)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21452)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19688)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17509)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13879)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13761)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14113)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21896)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15233)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14537)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15666)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14318)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15015)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18543)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24673)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23105)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28546)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15071)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14114)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14643)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18293)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26518)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15192)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14842)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15196)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15134)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant