Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm

15 Tháng Hai 202418:36(Xem: 482)
Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm
Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm 

Thích Nguyên Hùng


sen2

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hộicon người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúcthỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thầnCon người không ngừng ước muốn khám về chính mình và thế giới vũ trụ xung quanh mình. Đó là một trong những nguyên nhân hình thành tôn giáo và học thuyết triết học


Dẫn nhập 

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hộicon người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúcthỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thầnCon người không ngừng ước muốn khám về chính mình và thế giới vũ trụ xung quanh mình. Đó là một trong những nguyên nhân hình thành tôn giáo và học thuyết triết học


Tại đất nước Ấn Độ vào thời xa xưa, khoảng 8.000 năm trước Công nguyên, đã có khoảng 62 trường phái học thuyết triết học khác nhau và nổi bật nhất thời bấy giờ. Chính Đức Phật khẳng định rằng, tư tưởng của nhân loại luôn luận bàn về quá khứ tối sơ (tức khởi nguyên của vũ trụ), hay luận bàn về tương lai, hay luận về quá khứ tối sơ và tương lai, tất cả đều có những quan niệm sai khác nhau, nhưng tất cả đều nằm trong 62 trường phái triết học này, không thể ra ngoài, vì vậy Đức Phật đặt tên cho bài pháp thoại mà Ngài thuyết giảng là kinh Phạm võng, có nghĩa là tấm lưới tư tưởng bủa khắp tất cả tư tưởng của nhân loại

Trong 62 trường phái triết học, có những trường phái đã được hình thành từ sự chứng nghiệm tâm linhở một mức độ nào đó nhờ tư duy, thẩm sát và thiền địnhTuy nhiên, những chủ thuyết này ra đời phần lớn là dựa vào những cảm thọ, do sự xúc chạm qua sáu xứ. Và vì duyên với những cảm thọ mà tham áiphát khởi, dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não phát khởi. Cho nên, những trường phái triết học này, mặc dù được kinh nghiệm từ tâm linh, nhưng không đưa đến an lạc và giác ngộ giải thoátĐức Phật tuyên bốrằng, đối với 62 học thuyết đó, Ngài đều có kinh nghiệm và khẳng định rằng, nó phát sinh từ kinh nghiệm cảm thọ và chấp thủ cảm thọĐức Phật đã không bằng lòng với những kinh nghiệm tâm linhđó.1 

Hai cực đoan 

Đáng chú ý nhất trong 62 trường phái học thuyết triết học thời bấy giờ là hai trường phái hưởng thụ và khổ hạnh


Trường phái hưởng thụ là những người chủ trương sống theo chủ nghĩa vật chấtchủ nghĩa khoái lạc, do ông Carvakas sáng lập ra. Theo ông này, con người chết là hết, là chấm dứt tất cả, không có tội phước, không có đời sau, chỉ có thế gian hiện tại là thực tiễn. Chủ trương như vậy, cho nên trường phái này kêu gọi mọi người “hãy ăn, uống và tận hưởng mọi lạc thú, vì cái chết đến với tất cả”. Đối với những người theo trường phái này, “đạo đức là một ảo tưởng, chỉ có khoái lạc là thực tiễn. Chết là mức cuối cùng của đời sốngTôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một chứng bệnh thần kinh”2. Đây là trường phái chấp đoạn, tuyệt diệt, sống sa đọa, thô tụcthấp hèn

Trong khi đó, một trường phái khác hoàn toàn ngược lại, chủ trương rằng chỉ có đời sống khổ hạnh khắt khe mới có thể đưa con người đến giải thoát. Đó là một lý thuyết thuần túy đạo đức mà những nhà tu khổ hạnh thời bấy giờ bênh vực một cách mạnh mẽ và cũng được đông đảo quần chúng xã hội ủng hộ, xem những nhà tu khổ hạnh như là những biểu tượng của đạo đức giải thoát

Đức Phật khi còn là thái tử, dù Ngài không phải là tín đồ của trường phái chủ trương sống hưởng thụ vật chất, nhưng đời sống của một bậc vương giả thì không có gì thiếu thốn, và Ngài đã cảm thấy đời sống ấy quả thật quá thấp hèn. Sau khi xuất giatrải qua sáu năm thực hành đúng theo tôn chỉ của trường phái khổ hạnh với mọi hình thức, vượt lên trên cả những bậc thầy về khổ hạnh, nhưng rồi Ngài cũng nhận ra rằng lối tu khổ hạnh quả thật là vô ích. Từ đó, Ngài thay đổi phương pháp tu tập và thực hành theo phương pháp Trung đạo. Và quả nhiên, bằng phương pháp tu này, Ngài đã đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác

Con đường trung đạo 

Sau khi đắc đạoĐức Phật suy xét không biết có nên tuyên thuyết giáo lý mà Ngài chứng ngộ cho người đời hay không, hay chỉ nên giữ riêng cho mình, vì giáo lý mà Ngài chứng ngộ quá cao siêu, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt diệu, không phải do lý luậntế nhị, chỉ có bậc trí mới thấu triệtđược mà thôi. Hơn nữa, chúng sanh trong thế giới này thì thích thú dục lạc, song giáo pháp mà Đức Phật chứng ngộ thì hướng đến viễn lyly tham, ái diệt. Nghĩ như vậy, Đức Phật định vào Niết-bàn. Nhưng vì lòng từ bi mẫn, thương xót chúng sanh chìm đắm trong sinh tử khổ đau, nên Ngài lại nghĩ: “Có những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước, sống trong lòng nước, và sởn sơ tươi tắn trong nước. Có những cây sanh trong nước, trưởng thành trong nước, và ló dạng trên mặt nước. Có những cây khác sanh trong nước, trưởng thành trong nước và vượt lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ. Cũng vậy, chúng sanh kẻ ít người nhiều đều có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ ngu muội tối tăm, bẩm tánh của người này tốt, người kia xấu, có chúng sanh dễ dạy, cũng có chúng sanhkhó dạy, và một số ít khác, với lòng biết lo sợ, nhận thấy mối hiểm họa của một kiếp sống trong tương lai, chắc chắn nghe được giáo pháp”. Với niềm tin tưởng và hy vọng như vậy cùng với lòng từ bi cao cả, Đức Thế Tôn lên đường chuyển bánh xe pháp


Đức Phật lên đường hoằng pháp và bài pháp thoại đầu tiên được tuyên thuyết tại vườn Lộc Dã, Isipatana, gần Benares. Bài pháp thoại đầu tiên này được gọi tên là Chuyển pháp luân, khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp của Đức Phật. Đối tượng của bài pháp thoại này chính là các ông Ajnata-kaundinya, Bhadra-jit, Mahā-naman, Vaspa và Asvajit, năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Đức Phật trước đây. Nội dung của bài pháp thoại trình bày pháp Trung đạo và nêu lên hệ thống Bốn chân lý

Đức Phật dạy: 

“Này các bạn đồng tu, có hai cực đoan mà người xuất gia không nên vướng mắc. Đó là hai cực đoannào? Một là đắm mình vào dục lạcthấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không ích lợi. Mặt khác là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây khổ đau, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không lợi ích

“Này các bạn đồng tuNhư Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung đạo chính là con đườngkhiến cho ta thấy và biết, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”3


Đây là những lời pháp nhủ đầu tiên được ban phát, nhưng đã gói trọn tinh hoa của giáo lý giác ngộ giải thoátĐức Phật giảng giải rằng, đắm mình vào dục lạc hay ham thích đời sống lợi dưỡng sẽ làm chậm trễ tiến bộ tâm linh. Còn khổ hạnh sẽ làm giảm suy trí thức. Chính bản thân Đức Phật đã trải qua hai lối sống cực đoan này và kinh nghiệm rằng cả hai đều không dẫn đến mục tiêu cứu cánh. Rồi Ngài chỉ ra con đường mà chính Ngài đã khám khá, vô cùng thực tiễn và hữu ích. Đây là con đường duy nhất dẫn đến tình trạng trong sạch hoàn toàn và tuyệt đối giải thoát. Đó chính là con đường Trung đạo, được trải ra bằng Bát chánh đạoTrung đạo chính là Bát chánh đạo vậy! 
Thoát rừng tà kiến 

Trở lại bối cảnh đương thời Đức Phậtxã hội Ấn Độ có quá nhiều trường phái triết họctôn giáo với những chủ trương khác nhau, thậm chí chống trái nhau. 62 luận thuyết về vũ trụ và nhân sinh mà kinh Phạm động nêu ra đều căn cứ trên hai phần thời gian quá khứ tối sơ, gọi là bản kiếp bản kiến(pubbantakappikā, tức khởi nguyên của vũ trụ), và tương lai mạt kiếp, gọi là mạt kiếp mạt kiến(aparantakappikā, luận bàn về tương lai, đời sau). 


Về bản kiếp bản kiến, có trường phái chủ trương Thường trú luận (sassatavāda), cho rằng ngã và thế giới là thường hằngbất biến. Có trường phái chủ trương Bán thường trú luận (ekaccasassatavāda), cho rằng bản ngã và thế giới một phần thường trú và một phần không thường trú, chịu biến dịch, tức duy chỉ Brahman (Thượng đế) là thường hằng bất biếnngoài ra đều chịu biến dịch. Lại có trường phái chủ trương Hữu biên vô biên luận (antānantavāda), cho rằng tự ngã và thế giới là hữu biênvô biên, vừa hữu vừa vô biên và không phải hữu biên, không phải vô biên. Cũng có trường phái rất ngớ ngẩn, ấy là phái Nguỵ biện luận (anarāvikkhepavāda), hỏi một đường đáp một nẻo. Có trường phái chủ trương Vô nhân luận hay Ngẫu nhiên luận (adhicca-samuppannavāda), cho rằng thế giới này do ngẫu nhiên, không bởi nguyên nhân nào cả, xuất hiện từ hư vô

Về mạt kiếp mạt kiến, có trường phái chủ trương Hữu tưởng luận (saññīvāda), cho rằng đời sau có tưởng đồng thời có sắc (hữu hình), hoặc không sắc (vô hình), có biên (hữu hạn), hay không có biên (vô hạn), thuần lạc, hay thuần khổ, tưởng cục bộ hay tưởng vô lượng, v.v… Có trường phái chủ trương Vô tưởng luận (asaññīvāda), cho rằng đời sau có sắc, không có tưởng, v.v… Có trường phái chủ trương Phi tưởng phi phi tưởng luận (nevasaññīnāsaññīvāda), đời sau không phải có tưởng cũng không phải không có tưởng, v.v… Có trường phái chủ trương Đoạn diệt luận (ucchedavāda), cho rằng chúng sanhhoàn toàn đoạn diệtvô thường. Nhưng cũng có trường phái chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận (diṭṭhadhammanibbānavāda), cho rằng năm dục là Niết-bàn trong hiện tại, hoặc Sơ thiềncho đến Tứ thiền, là Niết-bàn trong hiện tại

Tựu trung, Tạp A-hàm gọi chung các chủ trương trên là Nhị biên, hay như Long Thọ khái quát thành sinh, diệt, thường, đoạn, nhất, dị, lai, xuất, và phương pháp để thoát khỏi rừng kiến chấp ấy chính là tu tập 12 nhân duyên, hay bất sinhbất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Kinh ghi: “‘Mệnh tức là thân’, hoặc ‘mệnh khác, thân khác’. Người ta thấy mệnh tức là thân, người tu phạm hạnh không nhận thức như vậy. Người ta thấy mệnh khác, thân khác, người tu phạm hạnh không chủ trương như vậy. (Người tu phạm hạnhthoát khỏi Nhị biênchân chính hướng trung đạo. Bậc hiền thánhxuất thế chánh kiến như thật, không điên đảo, nghĩa là do Vô minh, Hành sinh”4

Như vậy, Trung đạo chính là Duyên khởiDuyên khởi chính là không. Kinh ghi: “Ta sẽ vì các ông nói pháp, khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng sau cùng đều thiện; thiện nghĩa, thiện vị, thuần nhất thanh tịnhphạm hạnh trong sạch; đó gọi là kinh Đại không pháp. Các Tỳ-kheo hãy lắng nghe, khéo tư duy. Ta sẽ vì các ông mà nói. Thế nào là kinh Đại không pháp? Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là duyên Vô minh nên có Hành, duyên Hành nên có Thức,… cho đến tụ tập thuần một khối khổ lớn”5.

Lời kết 

Trung đạo là pháp môn tu tập, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đó là thái độ sống hay nghệ thuật sống đã đưa Thế Tôn đến chỗ giác ngộTrung đạo, theo Đức Thế Tôn định nghĩa, là con đường tám nhánh, tức Bát chánh đạo - chánh kiếnchánh tư duychánh ngữchánh nghiệpchánh mạngchánh tinh tấnchánh niệm và chánh định - nhưng theo ý nghĩa của đoạn pháp thoại mở đầu kinh Chuyển pháp luân thì trung đạo chính là phương pháp tu tập hay nghệ thuật sống đi ra ngoài hay vượt ra khỏi hai cực đoanhưởng thụ và khổ hạnhTrung đạo hoàn toàn không có ý nghĩa là con đường giữa, tức không phải là con đường đi giữa hai cực đoan hay nhị biênTrung đạo là con đường vượt ra ngoài đời sống hệ lụydương trần, vượt ra ngoài mọi sự kiềm tỏachi phối của ngũ dụctà kiến và vô minh


Theo ý nghĩa đó, điều quan trọng nhất của người xuất gia tu tập là phải giữ tâm an định, không bị lôi cuốn theo bất kỳ một xu hướng nào. Không những chỉ giữ tâm không bị vướng mắc vào hai cực đoan, mà ngay cả những cảm thọ lạc xuất phát từ thiền định cũng không vướng mắc. Do đó, Trung đạo được hiểu như là một phương pháp xả ly và giữ tâm bình thường. Đó chính là ý nghĩa mà chư Tổ thường dạy “Tâm bình thường là đạo”. 

Thật vậy, một thời, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc

Bấy giờ, Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức cũng trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Ám Lâm; đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều học tập không ngủ, tinh cần chánh trụ, tu tập đạo phẩm, nhưng tâm vẫn chưa giải thoátđược các lậu, nên có ý định xả giới, bỏ đạo hạnh, trở về đời sống thế tục chuyên việc bố thítu tập các phước nghiệp, vì nhà thầy rất giàu. 

Thế Tôn biết được tâm niệm ấy cho nên gọi thầy đến và nói pháp thoại “nghệ thuật lên dây đàn”, bởi Sa-môn Nhị Thập Ức khi sống tại gia rất giỏi đánh đàn. Theo đó, một người tu tập nếu quá sức tinh tấnsẽ khiến tâm rối loạn, nhưng chẳng tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy cần phải giữ cân bằng sự sống, biết sắp xếp thời gian thích hợp cho từng công việc, biết nắm bắt và buông bỏ những pháp cần và không cần cho đời sống phạm hạnh, như người nghệ sĩ đánh đàn biết lên dây vừa phải, không quá căng cũng không quá chùng. Đó là nghệ thuật sống vui an lạclối sống thong dongtrung đạo

Sa-môn Nhị Thập Ức sau khi lãnh thọ lời dạy của Thế Tôntrở về nơi xa vắng, tâm không buông lungnỗ lực tinh tấn tu tập, không bao lâu chứng quả A-la-hán, tìm được an lạc trong sáu trường hợpan lạcnơi vô dục, an lạc nơi viễn lyan lạc nơi vô tránhan lạc nơi ái tận, an lạc nơi thủ tận, và an lạc nơi tâm không di động. Thầy trình bày sở chứng của mình lên Đức Thế Tôn mà không khen mình khinh người, nên được Đức Thế Tôn khen ngợi, ấn chứng.

Rõ ràngtrung đạo là cách sống, nghệ thuật sống, sống với Duyên khởiBát chánh đạo, và nhờ cách sống này mà thoát ly sinh tử luân hồi vậy!

Thích Nguyên Hùng
Thư Viện Hoa Sen
____________________
(1) Trường A-hàm 21, kinh Phạm động. Pāli: D. 1. Brahmajālasutta. 
(2) Kinh dẫn thượng. 
(3) Kinh Chuyển pháp luân, Tạp A-hàm, số 397. S. 56. 11-12. Tathāgatena vuttā. 
(4) ĐKT/ĐCTT, T.02, n°.0099, p.84c. Nguyên văn: 『命即是身。』或言:『命異身異。』彼見命即是身者,梵行者無有;或言命異身異者,梵行者亦無有。離此二邊,正向中道。賢聖出世,如實不顛倒正見[1]所知,所謂緣無明行。 
(5) Kinh dẫn thượng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 174)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 208)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 227)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 295)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 209)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 256)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 365)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 328)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 308)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 393)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 618)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 485)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 585)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 755)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 846)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 861)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 847)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 739)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 714)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 717)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 838)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 944)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 723)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 621)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 715)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 830)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 719)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 709)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 854)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 870)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 907)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 891)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1094)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 958)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1678)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1070)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1212)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1216)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1119)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1127)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1284)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1567)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2038)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1101)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1356)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1100)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 955)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1067)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1103)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1538)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1291)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1297)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1028)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1185)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant