Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Sống Và Cuộc Đời Bồ Tát

18 Tháng Tư 202415:54(Xem: 223)
Sự Sống Và Cuộc Đời Bồ Tát

Sự Sống Và Cuộc Đời Bồ Tát

Nguyễn Thế Đăng


Bồ Tát Đạo  


Cuộc đời
 và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.

Bấy giờ, Thiện Tài nghe tiếng khảy móng tay, từ tam muội dậy, Bồ tát Di Lặc nói: 

Thiện nam tử! Ngươi trụ giải thoát tự tại không thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ tam muội hỷ lạc của các Bồ tát, có thể thấy cung điện trang nghiêm của Bồ tátdo thần lực gia trìtrợ đạo lưu xuất của nguyện tríhiển hiện. Ngươi thấy Bồ tát hạnh, nghe Bồ tátpháp, biết Bồ tát đức, rõ Như Lai nguyện. 

Thiện Tài thưa: Dạ vâng đức Thánh, đây là lực oai thần gia hộ ghi nhớ của thiện tri thức. Bạch đức Thánh, môn giải thoát này tên là gì? 

Di Lặc Bồ tát nói: Thiện nam tử, môn giải thoát này tên là Niệm trí trang nghiêm tạng vào tất cả cảnh giới ba đời chẳng quên mất. 

Thiện nam tử! Trong môn giải thoát này có bất khả thuyết bất khả thuyết môn giải thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ tát nhất sanh bổ xứ”.

Cái thấy pháp giới sự sự vô ngại trang nghiêm là do tích tập đầy đủ công đức và trí huệ của Bồ tát: “thấy Bồ tát hạnh, nghe Bồ tát pháp, biết Bồ tát đức, rõ Như Lai nguyện”. Pháp giới đó là do “thần lực gia trìtrợ đạo lưu xuất của nguyện trí hiển hiện” của tất cả chư Phật, chư đại Bồ tátPháp giớiđó là có sẳn, đầy đủ trang nghiêm, nhưng chỉ hiển hiện khi một Bồ tát đã đủ trí - bi - hạnh để có thể tương ưngthâm nhập.

Tương ưng và thâm nhập được pháp giới, Kinh nói là “trụ giải thoát tự tại không thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ tam muội hỷ lạc của các Bồ tát”.

Thấy và ghi nhớ pháp giới này thì Bồ tát giải thoát, “môn giải thoát này có tên là Niệm trí trang nghiêm tạng vào tất cả cảnh giới ba đời chẳng quên mất”. Pháp giới này là sự sự vô ngại, “trong môn giải thoát này có bất khả thuyết bất khả thuyết môn giải thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ tátnhất sanh bổ xứ”.

 

Thiện Tài hỏi: sự trang nghiêm này đi về đâu? 

Bồ tát Di Lặc nói: Đi về nơi chỗ đến. 

Từ trong trí huệ thần lực của Bồ tát mà đến, nương trí huệ thần lực Bồ tát mà trụ. Không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằngxa lìa tất cả”.

“Sự trang nghiêm này đi về đâu? Đi về nơi chỗ đến”, nghĩa là không đi không đến, không tới không về. Pháp giới và tất cả những trang nghiêm trong đó đều ở trong tánh Không và chính là tánh KhôngTánh Không là “không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằngxa lìa tất cả”.

Những xuất hiện trang nghiêm, những hiện tướng trang nghiêm đều là tánh Không, có xuất hiệnnhưng vẫn giải thoát: “Sắc tức là Không”. Và tánh Không không phải là bất động, không có gì cả, không trơ, mà tánh Không là môi trường cho mọi xuất hiện và mọi xuất hiện là “trùng trùng duyên khởi” nhưng vẫn nguyên là tánh Khôngnhư huyễn như mộng: “Không tức là sắc”.

Đây là điều thường được gọi là Chân Không - Diệu Hữu mà chỉ có “nguyện trí, huyễn trí” của Bồ tátmới có thể thấy biết và an trụ.

 

Thiện nam tử! Như Long vương làm mưa: chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy. Chỉ do sức tâm niệm của Long vương mà mưa xuống khắp thiên hạCảnh giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn. 

Thiện nam tử! Cũng vậy, những sự trang nghiêm trong lầu các này chẳng trụ ở trong, cũng chẳng trụ ở ngoài, mà chẳng phải là không thấy. Chỉ do thần lực của Bồ tát và lực thiện căn của ngươi mà được thấy những sự như vậy. 

Thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật, làm các sự huyễn: không từ đâu lại, không đi đến đâu. Dầu không đến không đi, mà do nhờ tập quen sức huyễn trí chẳng thể nghĩ bàn và do sức đại nguyệnthuở xưa, mà hiển hiện như vậy”.

Những sự trang nghiêm nhiếp nhập lẫn nhau của pháp giới sự sự vô ngại là do nhờ tập quen huyễn trí và do đại nguyện lúc mới ban đầu phát Bồ đề tâm mà thấy. Để thấy pháp giới như huyễn, như mộng không ở đâu cả mà xuất hiện khắp cả phải tập quen sức huyễn trí, tức là sức năng độngkhông thể nghĩ bàn của tâm thanh tịnh biến hiện mà vô trụ.

 

Thiện Tài thưa: Đại Thánh từ đâu đến? 

Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Các Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không ở, như vậy mà đến. Không nơi, không chấp, không mất, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không nhiễm, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, như vậy mà đến”.

Nền tảng cuộc đời và công việc của Bồ tát là tánh Không và tất cả hành động của Bồ tát là tánh Không. Cho nên đến và đi không là chuyện vướng mắc mà là giải thoát.

 

Thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanh. Từ nơi đại từ mà đến, vì muốn cứu hộ các chúng sanh. Từ nơi tịnh giới mà đến, vì tùy sở thích mà thọ sanh. Từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa nhiếp trì. Từ nơi thần thông mà đến, vì nơi tất cả xứ, tùy thích mà hiện. Từ nơi không lay động mà đến, vì hằng chẳng xa lìa tất cả chư Phật. Từ nơi không lấy bỏ mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải qua lại. Từ nơi trí huệ phương tiện mà đến, vì tùy thuận tất cả các chúng sanh. Từ nơi thị hiện biến hóa mà đến, vì giống như bóng hình mà hóa hiện”.

Bồ tát từ trí huệ tánh Không vốn giải thoát mà đến và cũng từ đại bi vì chúng sanh mà đến. Trí huệvà đại bi làm thành sự sống của Bồ tát ở thế gian này.

Nhưng thiện nam tử! Ngươi hỏi ta từ đâu đến? Thiện nam tử, ta từ sanh quán nước Ma la đề mà đến đây. 

Thiện nam tử! Nước ấy có xóm làng, tên là Phòng Xá, có trưởng giả tử tên là Cù Ba La. Vì giáo hóangười ấy vào Phật pháp mà ta ở nơi đó. Lại vì tất cả nhân dân đáng được hóa độ nên sanh nơi đó để thuyết pháp. Lại cũng vì cha mẹ và các quyến thuộc bà la môn mà diễn nói đại thừa khiến cho được vào nên ở nơi đó, rồi từ đó đến đây”.

Ở đoạn trên là Bồ tát Di Lặc lấy nền tảng là pháp thân không đến không đi để đến. Đoạn này nói cụ thể hóa thân của ngài và công việc của hóa thân nơi chốn sanh ra là giáo hóa tất cả nhân dân vùng ấy.

 

Thiện Tài đồng tử nói: Bạch đức Thánh! Thế nào là nơi sanh của Bồ tát? 

Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Bồ tát có mười chỗ sanh: Bồ đề tâm là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh ra Bồ tát. Tâm thâm sâu là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh thiện tri thức. Các địa là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh các ba la mậtĐại nguyện là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh diệu hạnhĐại bi là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh Bốn nhiếp pháp. Như lý quán sát là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh Bát nhã ba la mậtĐại thừa là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh phương tiện thiện xảoGiáo hóa chúng sanh là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh chư Phật. Trí huệ phương tiện là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh Vô sanh pháp nhẫnTu hành tất cả pháp là chỗ sanh của Bồ tát, vì là nhà sanh tất cả Như Lai của ba thời”.

Chỗ sanh của Bồ tát là mười nhà gồm tất cả con đường Bồ tát hạnh. Cũng mười yếu tố ấy tạo thành dòng họ và cuộc đời Bồ tát:

Thiện nam tử! Đại Bồ tát dùng Bát nhã ba la mật làm mẹ, phương tiện thiện xảo làm cha. Dùng Bố thí ba la mật làm nhũ mẫu, Trì giới ba la mật làm dưỡng mẫuNhẫn ba la mật làm đồ trang nghiêmTinh tấn ba la mật làm người dưỡng dụcThiền ba la mật làm việc giặt rửa, thiện tri thức làm thầy dạy, tất cả bồ đề phần làm bạn lành, tất cả pháp lành làm quyến thuộc, tất cả Bồ tát làm huynh đệBồ đề tâm làm nhà, như lý tu hành làm gia pháp, các địa làm gia xứ, các nhẫn làm gia tộcđại nguyện làm gia giáo, đầy đủ các hạnh làm thuận gia pháp, khuyên phát Đại thừa làm nối gia nghiệp. Nước pháp quán đảnh nhất sanh bổ xứ Bồ tát làm thái tửthành tựu Bồ đề làm hay tịnh giatộc”.

Nhân cách và đời sống Bồ tát được tạo thành bằng những pháp Bồ tát hạnh ở trên. Cho nên:

Bồ tát vượt qua địa phàm phu, nhập vào vị Bồ tát, sanh vào nhà Như Lai, trụ chủng tánh Phật, chẳng dứt Tam bảo, thường khéo giữ gìn chủng tộc Bồ tát, tịnh hạt giống Bồ tát, chỗ sanh tôn thắng, không có các lỗi ác, được tất cả thế gian trời, người, Ma, Phạm, Sa mônBà la môncung kính khen ngợi”.

 

Thiện nam tử! Đại Bồ tát sinh vào nhà tôn thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như bóng hình nên nơi các thế gian không ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến hóa nên nơi các cõi không nhiễm dính. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo hóa chúng sanh tâm không chán mỏi. Vì dùng đại từ bi làm thể tánh nên nhiếp thọ chúng sanh mà chẳng cảm thấy khổ nhọc. Vì thấu đạt sanh tử như mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không sợ hãi. Vì biết rõ các uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không mỏi nhàm. Vì biết các giới, xứ đồng với pháp giới nên nơi các cảnh giới không bị hoại diệt. Vì biết tất cả tưởng như sóng nắng nên vào nơi các loài không sanh điên đảo mê lầm. Vì đạt được tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh giới ma không khởi bám nhiễm. Vì biết pháp thân nên tất cả phiền não không lường gạt được. Vì được tự tại nên nơi tất cả loài đều thông đạt vô ngại”.

Bồ tát ở tại các cõi thế gian để giúp đỡ, giáo hóa chúng sanh, đó là tâm đại từ bi. Tâm đại từ bi này phải đi liền và hợp nhất với trí huệ thấu đạt tánh Không, để thấy tất cả sự vật, sự việc và cả chúng sanh là “như bóng hình, như biến hóa, như sóng nắng, như huyễn”. Thấy bằng trí huệ tánh Khôngnhư vậy mới khỏi “chán mệt” do bị “nhiễm dính” sanh tử và chúng sanh.

 

Thiện nam tử! Thân ta sanh khắp trong tất cả pháp giới, đồng sắc tướng khác biệt với tất cả chúng sanh. Đồng lời nói khác biệt với tất cả chúng sanh, đồng đủ thứ danh hiệu với tất cả chúng sanh, đồng những cử chỉ sở thích với tất cả chúng sanh mà tùy thuận thế giangiáo hóa điều phụcThị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh. Những sự nghiệp làm ra đồng với tất cả phàm phu chúng sanh. Đồng với tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Đồng thệ nguyện với tất cả Bồ tát, mà hiện thân đầy khắp pháp giới”.

Bồ tát Di Lặc là Bồ tát nhất sanh bổ xứhoàn toàn đạt đến pháp thânPháp thân là tánh Không, bao trùm, đầy khắp pháp giới và có mặt trong mọi sự vật, mọi chúng sanh. Thế nên pháp thân tánh Không đồng với tất cả chúng sanh, đồng sắc tướnglời nói, tên gọi, cử chỉsở thíchsự nghiệp với tất cả chúng sanh. Đồng với tất cả pháp giớichúng sanh, nhưng vẫn nguyên là pháp thân tánh Không vô nhiễmthanh tịnh. Như đại dương đồng với tất cả sóng nhưng đại dương vẫn là đại dương. Sóng có sắc tướng, nghiệp do nhân quả cá thể khác nhau nhưng sóng chẳng thể làm nhiễm ô đại dương, chẳng thể làm nước đại dương biến chất.

Đối với đại thừagiải thoát không phải là lìa bỏ sóng chúng sanh, mà là trở thành đại dương để bao trùm và thể nhập vào tất cả sóng, nhưng chẳng có sóng nào có thể làm nhiễm ô, làm hư hoại đại dương.

Thiện nam tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa đồng tu các hạnh với ta mà nay thối thất tâm Bồ đề. Cũng vì giáo hóa cha mẹ quyến thuộc, cũng vì giáo hóa các Bà la môn khiến họ bỏ tánh kiêu mạn, được sanh vào chủng tánh Như Lai, nên ta sanh tại nhà Bà la môn, xóm làng Phòng Xá, nước Ma La Đề, nơi cõi Diêm Phù Đề này. 

Thiện nam tử! Ta ở trong đại lầu các này tùy tâm sở thích của các chúng sanh, dùng nhiều phương tiện mà giáo hóa điều phục”.

Đây là hóa thân thị hiện của đức Di Lặc ở cõi Diêm Phù Đề, nước Ma La Đề.

Thiện nam tử! Ta vì tùy thuận tâm chúng sanh. Ta vì thành thục chư thiên đồng tu hành trên cung trời Đâu Suất. Ta vì thị hiện Bồ tát phước trí biến hóa trang nghiêm vượt hơn tất cả Dục giới khiến họ bỏ các dục lạc. Vì khiến cho biết hữu vi đều vô thường. Vì khiến cho biết chư Thiên có thịnh tất có suy. Vì muốn thị hiện lúc sắp giáng sinh dùng pháp môn đại trí cùng chư Bồ tát nhất sanh bổ xứcùng nhau đàm luận. Vì muốn nhiếp hóa những người đồng hành. Vì muốn giáo hóa những người còn sót lại từ đức Thích Ca Như Lai, khiến cho họ đều khai ngộ như hoa sen nở, khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời Đâu Suất”.

Không phải chờ lúc hạ sanh xuống thế gian thị hiện thành Phật, độ tất cả chúng sanh, mà đức DiLặc vẫn thị hiện xuống trần gian để hóa độ những người còn sót lại từ thời Phật Thích CaTóm lạihoạt động hóa độ của đức Di Lặc là ở cung trời Đâu Suất và thế giới loài người ở cõi này.

 

Này thiện nam tử! Lúc ta viên mãn bổn nguyện thành Nhất thiết trí, chứng Vô thượng Giác ngộ, thì ngươi và Văn Thù Sư Lợi đều thấy được ta. 

Thiện nam tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn Thù Sư Lợi thiện tri thức để học hỏi làm thế nào nhập Phổ Hiền hạnh, thế nào thành tựu, thế nào rộng lớn, thế nào thanh tịnh, thế nào viên mãn”.

Đến đây là hết đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp Bồ tát nhất sanh bổ xứ Di Lặc. Sau đó Thiện Tài qua Bồ tát Văn Thù, được chỉ dạy ngắn và rồi đến Bồ tát Phổ Hiềnchấm dứt cuộc hành hương cầu Giác ngộ vô thượng. Đây là đoạn cuối khi ở với Bồ tát Phổ Hiền.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thiện Tài liền thứ lớp đắc được các biển hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, đồng với chư Phật một thân đầy khắp tất cả thế giới, đồng cõi nước, đồng hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng bánh xe pháp, đồng biện tài, đồng lời nói, đồng âm thanh, đồng lực không sợ hãi, đồng chỗ trụ của Phật, đồng đại từ bigiải thoát tự tại không thể nghĩ bàn, tất cả đều đồng”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 75)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 116)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 261)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 275)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 336)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 259)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 341)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 445)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 397)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 356)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 442)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 660)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 514)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 532)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 622)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 813)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 884)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 907)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 890)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 771)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 757)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 753)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 853)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 872)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 975)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 756)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 645)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 754)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 863)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 763)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 759)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 874)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 906)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 861)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 915)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 948)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 934)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1134)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 997)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1727)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1109)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1243)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 986)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1252)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1155)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1163)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1324)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1617)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2082)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1143)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1394)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1138)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 987)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1089)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1138)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1565)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1324)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1338)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1056)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant