Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7983)
12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật  Thứ Tám
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật
Thứ Tám


 Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất : « Thế nào gọi là đại Bồ Tát Sằn đề ba la mật ?
 Vì Vô thượng Bồ đề , Đại Bồ tát ở nơi pháp như vậy chuyên cần tu học thật hành bồ tát hạnh.
 Này xá Lợi Phất ! Do an trụ Sằn đề ba la mật nên có đủ nhẫn lực gầy dựng tánh vững vàng, đối với tất cả sự lạnh nóng đói khát muỗi mòng rắn rít gió nắng v.v… đều có thể chịu đựng được cả. Lại hay chịu đựng những lời lẽ thô ác xấu tục và dao gậy chém đập trên thân đau đớn khổ sở hoặc đến mất mạng. Đây gọi là Sằn đề Ba la mật.

 Này Xá Lợi Phất ! Thuở xa xưa , lúc ta chưa thành Phật, ta thật hành Bồ tát hạnh thường tu nhẫn nhục ».
 Này Xá Lợi Phất thưa : » Bạch Đức Thế Tôn Lúc làm Bồ Tát, Đức Thế Tôn tu nhẫn nhục như thế nào ? ».
 Đức Phật phán dạy : « Này Xá Lợi Phất Nhớ thuở xa xưa, lúc ta thật hành Bồ tát hạnh, có nhiều chúng sanh đến mắng nhục ta, mắng nhiếc phi pháp, quở trách phi pháp. Thuở ấy vì thật hành nhẫn nhục nên ta dằn lòng chẳng giận hờn oán ghét, ta chỉ nghĩ rằng trong các pháp hành không không có pháp nào dễ được như chê mắng và quở trách, vì thế ta phải tu tập xả bỏ. Lại đối với họ ta phải có lòng từ bi. Tại sao ? Chúng sanh trong đời phần nhiều ở trong sự quở trách mắng nhiếc , do ác nghiệp ấy lại cảm lấy quả báo sanh chỗ nào đều có thân tướng xấu xí đáng ghét . Nay ta chẳng thích sự xấu xí thì đâu nên thích làm sự mắng nhiếc quở trách. Tại sao? Vì các ác nghiệp mắng nhiếc quở trách ấy là nghiệp chẳng lành, là nghiệp chẳng xứng lý, là nghiệp của kẻ ngu, là nghiệp hạ liệt, là nghiệp bất thiện chẳng phải nghiệp của kẻ thiện nhân, chẳng phải nghiệp của Hiền Thánh. Do nghiệp ấy mà đọa vào các thế giới địa ngục, bàng sanh , ngạ quỷ. Lại do nghiệp ấy mà làm quyến thuộc với ác đạo. Do nghiệp ấy cảm lấy thân dạ xoa bần cùng và quả báo căn bổn bần cùng của dạ xoa. Do nghiệp ấy mà cảm lấy thân ngạ quỷ bần cùng và quả báo bần cùng của ngạ quỷ. Do nghiệp ấy mà cảm lấy thân loài người bần cùng và quả báo căn bổn bần cùng của loài người. Lại do nghiệp mắng chửi ấy nên cảm lấy thân bàng sanhquả báo căn bổn của loài bàng sanh.
 Nay ta chẳng nên cầu loài hạ liệt Tại sao ? Vì nếu ta cầu làm các sự việc ấy thì với các chúng sanh có khác gì ? các chúng sanh ấy chẳng thuần lý. Ta thì thuần lý nên chẳng đồng với họ.
 Này Xá Lợi Phất ! chư Đại Bồ Tát thực hành sằn đề ba la mật, phải nên theo Phật học pháp ấy. Tại sao ? Lúc bị người quở trách mắng chửi, chư đại bồ tát ấy bèn có thể y theo chánh pháptác ý tư duy nhịn chịu. Do được sức nhẫn hục như vậy, chư đại bồ tát ấylại được vô lượng thiện căn vi diệu. Giả sử có người đem trân bảo đầy cả thế giới để bố thí cũng không bằng công đức nhẫn nhục trên. Tại sao ? Vì hạnh nhẫn nhục phải hạnh trựơng phu cực thiện mới có thể tu tập được. Tại sao? Vì chúng sanh phần đông vì sự mắng chửi quở trách bắt giữ nên lưu chuyển sanh tử chẳng dứt.
 Lại này Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát thật hành sằn đề ba la mật ấy phải tự cố gắng quán sát thật kỹ mà nghĩ rằng lúc t a bị người mắng chửi quở rầy, ta có thể nhớ nghĩ suy gẫm Phật, Bồ đề, Pháp và Tăng chăng. Nếu có thể nhớ suy là tốt, bằng không thì chẳng gọi là tốt. Lại còn phải dùng vô lượng phương tiện để nhớ suy nơi Phật, nơi Bồ đề, nơi Pháp và Tăng.
 Lại này Xá Lợi PhấtĐại Bồt Tát ấy suy gẫm như trên rồi phải quán sát nay ta cùng các chúng sanh kia có những tưóng gì sai khác đặc biệt. Tại sao? Các chúng sanh kia hiện đang ở trên thân thể ta mà phát khởi giận hại, còn ta ở nơi Phật ,Bồ đề, Pháp và Tăng mà chẳng nhớ suy thì có khác gì họ, có tướng gì đặc biệt hơn họ.
 Đại Bồ Tát ấy lại suy nghĩ nếu lúc bị người giận hại mà ta bỏ Phật, Bồ đề, Pháp và Tăng mà không nhớ suy thì chẳng nên.

 Đại Bồ Tát lại suy nghĩ nếu ta giận hờn họ thì là người vô trí không có sức nhẫn nhục, cũng là trái với bổn nguyện. Tại sao? Vì nếu giận hờn họ thì không còn có tâm nhiếp thọ tất cả chúng sanh, chẳng bỏ tấ cả chúng sanh. Nếu ta có lòng giận một hữu tình thì chẳng ngọi là pháp nhiếp hóa của Bồ Tát, còn ai thĩnh ta thực hành Bồ Tàt hạnh, huống là thuở xưa phát nguyện rằng ta sẽ mau chứng Vô Thượng Bờ Đề rồi sẽ rộng thuyết chánh pháp cho tất cả chúng sanh. Lúc vừ phát nguyện ấy xong, chư Phật Thế Tôn cùng đồng chứng cho ta mà ghi nhận thiện nam tử này phát tâm an trụ Vô thượng Chánh giác rồi sẽ vì chúng sanh rộng tuyên chánh pháp. Hôm nay chư Phật Thế Tôn với trí vô ngại, với mắt thấy vô ngại hiện chúng biết ta. Thế nên ta chẳng được lúc bị người mắng chửi mà sanh lòng giận hờn quên bỏ Phật, Bồ đề Pháp và Tăng mà chẳng nhớ suy. Hiện tại phương Đông có hằng ha sa thế giới, có hằng hà sa chư Phật Thế Tônhiện tại trụ trì, chư Phật Thế Tôn ấy cũng chứng biết tâm ta phát chánh nguyện. Ba phương kia cùng bốn hướng trên và dưới đều cũng như vậy. Đương lúc ta phát chánh nguyện ấy, chư Phật Thế Tôn đồng thanh khen sức nhẫn nục của ta. Ta chẳng nên làm sư tử rôg là nói ta sẽ chứng được nhẫn lực lớn. Tiếng cheo kêu là nói ta làm sự giâ hờn mắng nhiếc.
 Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy lại ngĩ rằng chúng sanh thế gian đượclợi của người rồi mới làm lợi cho người. Nếu ta dược lợi của chúng sanh mới làm lợi cho chúng sanh thì ta có gì khác thế gian có tướng gì kỳ lạ đâu?
 Đại Bồ tát lại nghĩ ràng chúng sanh thế gian, nếu bị người làm hại thì họ làm hại lại người. Nếu ta bị người làm hại cũng làm hại lại người thì ta có khá gì thế gian, có gì là tướng đặc dị đâu?
 Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát phải ở trong tướngnày mà tu học.
 Đại Bồ tát lại nghĩ rằng chúng sanh thế gian làm oán đối lẫn nhau, nếu đuợc lợi nơi người thì cho là bạn tốt, nếu không được lợi nơi người thì giết hại nhau. Ta đã thấy sâu lỗi lầm ấy, vậy ta chớ nên nhìn thấy chúng sanh làm lợi cho ta , cũng chẳng nhìn thấy chúng sanh làm hại ta, mà chỉ nên nghĩ rằng nay ta quyết phải nhiêu ích tất cả chúng sanh, vì muốn đầy đủ sằn đề ba la mật vậy ”.
 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
 “Dầu trong nhiêề u trăm câu chi kiếp
 chúng sanh kia làm hại cho ta
 Thấy chúng sanh kia thọ các khổ
 trọn không an trụ lòng xả bỏ
 Thế gian được tài lợi của nhau
 Họ kêu gọi nhau là bạn tốt
 Nếu họ chẳng được lợi của nhau
 Kia đây thù oán tàn hại nhau
 giả sử đem cả cõi đại địa
 Hoặc đem Đại Thiên Phật Thé Gíu
 Đựng đầy trân bửu tới dâng cho
 Thường cầu ta làm bạn hiền thiện
 Giả sử nắm cầm dao gướm bén
 Đến chặt chém cả rhân thể ta
 Ta phải đối với chúng sanh ấy
 Bình đẳng lợi ích lòng không hai
 Với người mắng ta ta phải nhẫn
 Cũng nhẫn tất cả các nạn khổ
 Phải vì chúng sanh khen sức nhẫn

 Ta cũng an trụ trong đại nhẫn
 Các chúng sanh bạo ác trong đời
 dùng gươm dao độc giết hại nhau
 Hòa hiệp được họ làm lành
 Đây là tướng thánh hiền trí tuệ
 Ta chẳng nên học theo kẻ ngu
 lại hành động khác với họ
 Việc làm của phàm phu cũng thế
 Sanh tử Niêt-bàn sai hẳn khác ».
 Lại này Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Sằn đề Ba la mật, đại Bồ Tát phải tu tập chánh pháp như vậy. Nầy Xá lợi Phất ! Đại Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng giả sử trong trăm ngàn câu chi na do tha đại kiếp , các chúng sanh thường dùng dao gậy ngói đá làm hại ta chỉ còn sống sót chừng giây lát, ta phải vui mừngquán niệm rằng lạ thay người thánh phàm phu này có thể chẳng giết chết hẳn ta. Bồ Tát ấy từ nay về sau càng tu học hơn. lại nghĩ rằng giả sửchúng sanh trong khoảng thời gian đi bảy bước chặt đứt đầu ta như số cát sông Hằng, ta cũng trọn chẳng hờn chẳng giận họ . Tại sao ? Vì giận hờn có tổn hại những căn lành đả chứa cả trăm ngàn đại kiếp. Nếu bị tổn hại căn lành thì ta sẽ phải trải qua trăm ngàn đại kiếp mới bắt đầu cần khổ tu thánh đạo đưọc ? Nếu như vậy thì thật khó được Vô thượng Bồ đề ? Vì thế nên ta phải mặc áo nhẫn nhục, dùng sức kiên cố dẹp quân hờn giận.

 Này Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tu Đại thừa mà có lòng hờn giận thì ma được dịp làm hại và làm chướng ngại Vô thượng Bồ dề.
 Này Xá Lợi Phất ! lòng hờn giận có thể làm nhiễu loạn dạo Bồ đề. Lòng hờn giận hay phát sanh nghiệp của ma . Thế nào gọi là nghiệp của ma ?
 Nếu có Bồ Tát lòng dừng ở y bát chẳng thể rời bỏ, phải biết đó là ma nghiệp,. Lòng dừng ở khất thực nơi nhà thí chủ chẳng thể rời bỏ, phải biết đó là ma nghiệp. Lòng dừng ở danh tiếng cung kính lợi dưỡng chẳng thể rời bỏ, phải biết đó là ma nghiệp. Với pháp xuất gia thường có lòng chán khổ , đó là ma nghiệp. Với pháp lành sạch có lòng khinh rẻ, đó là ma nghiệp. Chỗ trống vắng không có chí mong cầu, đó là ma nghiệp. Chẳng thích Chánh đẳng Chánh giác, đó là ma nghiệp. Với trí huệ Nhị thừa luôn cầu học, đó là ma nghiệp. Nhẫn đến dối với Hòa ThượngA Xà Lê không có lòng kính ngưỡng tùy thuận, đó là ma nghiệp.
 Nầy Xá lợi Phất ! Bao nhiêu lời hờn giận như vậy có thể làm nhiễu loạn đạo Bồ đề. Đây là dừng ở tâm nhiễu loạn.
 Này Xá Lợi Phất ! Lúc thực hành Sằn dề Ba la mật, đại Bồ Tát nghĩ răng từ nào các chúng sanh bị những ác ma rình rập để hại, đó là hờn giận. Nay ta vì ông mà nói rộng việc ấy.
 Này Xá Lợi Phất ! Nhớ thuở quá khứ ta làm đại tiên nhơn tên Tu Hành Xứ. Bấy giờ có ác ma hóa làm năm trăm người đàn ông mắng nhiếc khỏe luôn theo mắng ta. Chẳng luận nơi tăng phường tịnh thất, làng xóm tục gia, hoặc nơi đường sá, nơi trống vắng, hoặc ngày hoặc dêm, lúc ta đi đứng ngồi nằm , các hóa ma ấy dùng lời thô mắng nhiếc quở trách ta cả năm trăm năm tròn. Ta nhớ trong thời gian năm trăm năm bị mắng quở như vậy, ta chẳng hề có chút lòng hờn dối với họ, mà có lòng từ bi xót thương họ.
 Lúc đó ta nghĩ rằng nếu có các thiện nam tử giữ gìn Thi la có đủ pháp lành, nhẹ ít nơi tánh tham sân si, chẳng phải chỉ làm lợi ích cho các người ấy mà gọi ta là làm việc khó làm, cũng chẳng phải chỉ làm lợi ích cho các người ấy mà có thể chứng Vô thượng bồ đề.Tại sao ? Vì nếu có các chúng sanh cang cường khó điều khó phục Thi la có đủ pháp ác tánh tham sân si nặng dục, nếu ta làm lợi ích cho các người ấy thì mới đáng gọi ta là làm việc khó làm, do ta làm lợi ích các người ấy mà mau chứng Vô thượng bồ đề trước tiên sẽ làm cho các người ấy chứng Niết-bàn vậy.Này Xá Lợi Phất ! Lúc lòng hờn giận nổi lên, các đại Bồ Tát ấy phải phát khởi các chánh niệm lớn như vậy. Nếu có chánh niệm lớn thì các sự lợi ích mau được viên mãn.
 Này Xá Lợi Phất ! Thuở quá khứ, do đức Như Lai thật hành Sằn đề Ba la mật như vậy nên chứng được Vô thương Bồ đề. Vì thế nên đại Bồ Tát muốn cầu Vô thượng Bồ đề, thì ở nơi các nhẫn lực luôn phải có đủ, chịu đựng được các lạnh nóng đói khát, gió nắng muỗi mòng rắn rít cắn đốt, có thể nhịn chịu tất cả lời thô ác mắng quở, có thể nhịn chịu tất cả sự đập đánh chặt chém thân thể đến phải chết.
 

 Đây gọi là đại Bồ Tát an trụ mau chứng được Vô thượng Bồ đề.
 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là Bồ Tát Sằn đề Ba la mật, y theo đó tu hành, đại Bồ Tát thành mãn đầy đủ tướng nhẫn pháp ?
 Này Xá Lợi Phất ! không giận hờn là Bồ Tát nhẫn. Không có giận dữBồ Tát nhẫn. Chẳng khởi oán thù là Bồ Tát nhẫn. Không các tổn não là Bồ Tát nhẫn. Khéo bảo hộ mình là Bồ tát nhẫn. Khéo bảo hộ người là Bồ Tát nhẫn. Khéo bảo hộ thân là Bồ Tát nhẫn. Khéo bảo hộ lời là Bồ Tát nhẫn . Khéo bảo hộ ý là Bồ Tát nhẫn. Quán sát đúng lý là Bồ Tát nhẫn. Chán rời ngũ dụcBồ Tát nhẫn. Tu tịnh nghiệp báo là Bồ Tát nhẫn. Thân thanh tịnh tốt là Bồ Tát nhẫn. Tâm thanh tịnh tốt là bồ Tát nhẫn.Cảm thọ báo vui thanh tịnh viên mãn là Bồ Tát nhẫn
 Tướng Như lai viên mãn trang nghiêmBồ Tát nhẫn. Lời Như Lai thanh tịnh vi diệuBồ Tát nhẫn. Thực hành Bồ Tát hạnh nhiếp các gốc lành chẳng để hư mất là Bồ Tát nhẫn. Ra khỏi sự bức bách khổ não của chúng sanhBồ Tát nhẫn . Trừ diệt tất cả sự ác oán thù là Bồ Tát nhẫn.
 

 Này Xá Lợi Phất ! Nói tóm lại, tất cả những đức mà Như Lai có, như thập lực, tứ vô úy, bất cộng pháp, đại từ đại bi đại hỷ đại xả, vô lượng Phật pháp vi diệu viên mãn đều do Sằn đê Ba la mật của đại Bồ Tát làm nên cả.
 Lại này Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Sằn đề Ba la mật, đại Bồ Tát phải đầy đủ các chánh hạnh nhẫn nhục.
 Này Xá Lợi Phất ! Nếu bị mắng nhiếc, đại Bồ Tát chẳng mắng lại, vì khéo thấu rõ ngôn ngữ như vang vậy.
 Nếu bị đập đánh, đại Bồ Tát chẳng đánh lại ; vì thấu rõ thân hình như bóng như tượng vậy.
 Nếu bị giận dỗi ; đại Bồ Tát chẳng giận lại, vì khéo quan sát tâm niệm như ảo như hóa vậy.Nếu được khen bị chê, đại Bồ Tát chẳng ưa chẳng giận, vì khéo thân mình viên mãn công đức vậy.Nếu được lợi thất lợi, đại Bồ Tát chẳng mừng chẳng buồn, vì điều phục tâm mình trong tịch tĩnh vậy.
 

 Đại Bồ Tát chẳng mong tiếng tốt , chẳng phạm tiếng xấu, vì khéo có thể quan sát trí huệ rộng lớn vậy.
 Bị chê chẳng tự hạ, được khen chẳng tự cao, vì khéo an trụ nơi đức hạnh chẳng khuynh động vậy.Với các sự khổ Bồ Tát chưa hề chán ghét, vì được sự luyến nhớ của các chúng sanh khổ vậy.
 Với các sự vui , đại Bồ Tát chưa hề ưa ham, vì biết sự vui hữu vi tánh chất vô thường vậy.
 Tám pháp thế gian chẳng nhiễm trước được, vì đại Bồ Tát chẳng y dựa tất cả hữu vi mà sanh tâm vậy.
 Với sự khổ của mình, đại Bồ Tát khéo cam chịu, vì chẳng hề làm cho người khác khổ não vậy.
 Với Bồ đề thù thắng, đại Bồ Tát chẳng lui sụt, vì những giác phần tư lương đã khéo viên mãn vậy.
 Bị chặt thân thể rã rời nhẫn đến chém đầu, đại Bồ Tát nếu khéo cam chịu được, vì mong cầu thân kim cương của Phật vậy.
 

 Bị xẻo cắt thịt nơi thân, đại Bồ Tát khéo có thể cam chịu, vì mong cầu tướng hảo vi diệu của Như Lai vậy.
 Các sự tai biến hung dữ, đại Bồ Tát khéo cam chịu được, vì vun trồng tất cả sức mạnh nghiệp lành vậy.
 Này Xá Lợi Phất ! Các sự việc như vậy gọi là đại Bồ Tát thành tựu Sằn đề Ba la mật, phải học như vậy.
 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Các sự việc nhẫn nhục của đại Bồ Tát lúc thực hành Sằn đề Ba la mật, gọi là cứu cánh nhẫn. Tại sao ? Vì nếu có quan niệm ta có thể chịu đựng dược ssự chê mắng rồi nhịn chịu, thì gọi đó là câu sanh nhẫn mà chẳng phải là cứu cánh nhẫn.
 Nếu có quan niệm ai mắng và tại sao mắng rồi nhịn chịu, thì gọi đó giảo kế pháp nhẫn.
 Nếu có quan niệm nhãn xứ có thể mắng nhãn xứ ư ? Rồi nhịn chịu, thì gọi đó là quán chư xứ nhẫn.
 Nếu có quan niệm trong đây không có năng không có sở rồi nhịn chịu , thì gọi là ngộ nhậpchúng sanh nhẫn.
 Tất cả những thứ nhẫn ấy đều chẳng phải cứu cánh nhẫn của đại Bồ Tát.

 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nếu quan niệm tiếng mắng chỉ là danh tự, thì gọi là âm hưởng nhẫn.
 Nếu quan niệm người và mình đều vô thường, thì gọi là ngộ vô thường nhẫn.
 Nếu quan niệm họ đìên đảo còn ta không điên đảo, thì gọi là cao hạ nhẫn.
 Nếu quan niệm họ phi lý còn ta chánh lý, thì gọi là tương ưng bất tương ưng nhẫn.
 Nếu quan niệm họ là tà đạo còn ta là chánh đạo, thì gọi là nhị đạo sai biệt nhẫn .
 Những thứ nhẫn ấy đều chẳng phải cứu cánh nhẫn.
 Nếu quan niệm ta chịu không chẳng phải chịu hữu, ta chịu vô tướng chẳng chịu giác quán, ta chịu vô nguyện chẳng chịu nguyện cầu, ta chịu vô tác chẳng chịu các pháp hành, ta chịu hết phiền não chẳng chịu phiền não, ta chịu các pháp lành chẳng chịu các pháp ác , ta chịu vô tội chẳng chịu có tội, ta chịu vô lậu chẳng chịu hữu lậu, ta chịu xuất thế chẳng chịu thế gian, ta chịu thanh tịnh chẳng chịu tạp nhiễm, ta chịu Niết-bàn chẳng chịu sanh tử.
 Những thứ nhẫn ấy chỉ được gọi là trị đoạn nhẫn mà đều chẳng phải cứu cánh nhẫn của đại Bồ Tát vậy.

 Lại này Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Sằn đề Ba La mật, đại Bồ Tát tu tập cứu cánh nhẫn.
 Đại Bồ Tát nếu tùy thuận không mà chẳng diệt dứt các sự thấy có, nơi không tánh ấy cũng chẳng tăng thêm. Nhẫn như vậy thì gọi là Bồ Tát cứu cánh nhẫn.
 Nếu tùy thuận mà chẳng diệt cầu nguyện, nơi tánh vô nguyện cũng chẳng tăng thêm. Nếu tùy thuận không mà chẳng diệt các hành pháp, nơi tánh vô tác cũng chẳng tăng thêm. Nếu tùy thuận không mà chẳng diệt phiền não, nơi tánh hết phiền não cũng chẳng tăng thêm. Nếu tùy thuận không mà chẳng diệt bất thiện, nơi tánh thiện cũng chẳng tăng thêm. Nếu tùy thuận không mà chẳng diệt có tội, nơi tánh vô tội cũng chẳng tăng thêm.Nếu tùy thuận không mà chẳng diệt sanh tử, nơi tánh Niết-bàn cũng chẳng tăng thêm.
 Này Xá Lợi Phất ! Những thứ nhẫn ấy gọi là Đại Bố Tát cứu cánh nhẫn.
 Này Xá Lợi Phất ! tất cả các pháp chẳng phải năng sanh, chẳng phải sở sanh, chảng phải đã sanh, chẳng phải hiện đang sanh . Chẳng có một pháp nào là có thể sanh khởi được. Vì không khởi nên không diệt tận. Nếu biết được không diệt tận ấy thì gọi là đại Bồ Tát cứu cánh nhẫn.
 Này Xá Lợi Phất ! Tất cả các pháp chẳng phải hữu vi , không có tăng thêm, không trồng không thêm , cũng không nuôi lớn , không thạnh không suy, không tác giả, không khởi giả. Do không khởi nên cũng không tận. Nhẫn như vậy thì gọi là đại Bồ Tát vô sanh nhẫn
 Này Xá Lợi Phất ! Vì Vô thượng Bồ đề nên đại Bồ Tát thật hành Bồ Tát hạnh. Nếu có ai thành tựu nhẫn như vậy thì gọi là Bồ Tát Sằn đề Ba la mật viên mãn thành tựu.
 Này Xá Lợi Phất ! Nếu đại Bồ Tát an trụ Sằn đề Ba la mật như vậy mà chuyên cần tu học thật hành Bồ Tát hạnh , thì chẳng bị thiên ma nhiễu loạn, cũng chẳng bi dị đạo tà dạo chiết phục.

 Pháp hội Bồ Tát Tạng
 Phẩm sằn đề ba la mật thứ tám
 HẾT
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13687)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25362)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13767)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15078)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17683)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17094)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14193)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13169)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14422)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16735)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18593)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19026)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18837)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21146)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14780)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39151)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14390)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19347)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14695)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16136)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14687)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15224)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14890)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15543)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39096)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14102)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24495)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14362)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17990)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21438)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19680)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17493)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14811)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13876)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21890)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16732)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15231)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14034)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14337)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15644)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14304)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14998)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18535)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24655)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23089)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28524)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15058)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14102)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14629)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18281)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26505)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15179)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14828)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15187)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15132)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant