Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9- Nhập Bất Nhị Pháp Môn

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7258)
9- Nhập Bất Nhị Pháp Môn

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Nhập Bất Nhị Pháp Môn

Một trong những công án Thiền là câu “Muôn pháp trở về một, một về chỗ nào?” Cái một ấy bao trùm tất cả, chứa đựng tất cả, dung thông tất cả, ở đâu cũng chính nó, vậy thì có gì đến đi. Danh từ một và hai chỉ là số lượng phân biệt của thế gian, nhưng từ chỗ khởi đầu phân biệt một và cái khác với một ấy, nảy sinh ra vô số phân biệt, lôi kéo không cùng. Nay đưa ra câu hỏi về “bất nhị”, cũng giống như ý nghĩa hành phi đạo chính là con đường Phật để các vị Bồ-tát nói lên quan điểm của mình. Qua đó, chúng ta thấy rằng Bồ-tát sau khi thực hiện tất cả việc độ sanh, đi khắp nơi, đến với mọi loài thì sẽ có một cái nhìn quán triệt, thông đạt không ngại.

VĂN KINH

Lúc ấy Duy-ma-cật nói với chúng Bồ-tát rằng: “Chư nhân giả! Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn không hai?” Đến đây các vị Bồ-tát lần lượt nói lên ý kiến của mình.

1- Bồ-tát Pháp Tự Tại nói: Sanh và diệt là hai. Pháp vốn xưa chẳng sanh, nay ắt chẳng diệt. Được Vô Sanh Pháp Nhẫn là vào pháp môn không hai.

Nhìn tổng quát các hiện tượng, chúng ta bị chi phối bởi sự có mặt và sự biến mất của chúng. Bồ-tát nhìn trên bản thể, thấy không sanh diệt, được một cái nhìn sâu, bao trùm như thế thì thấy không có hai.

2- Bồ-tát Đức Thủ nói: Ngã và ngã sở là hai. Vì có ngã nên mới có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở.

Vị Bồ-tát này đặt vấn đề chính ở bản ngã. Ý thức về mình về người, về cái của ta và không phải của ta, làm mọi sự chia cắt. Ngã là cái nút cần được tháo gỡ, một thi sĩ nói:

Khi chưa có ta hề đường đi thênh thang

Kịp khi có ta hề chông gai mênh mang.

3- Bồ-tát Bất Huyễn nói: Thọ và chẳng thọ là hai. Nếu chẳng thọ đối với các pháp thì là bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên không lấy không bỏ…

Bồ-tát này đứng về thái độtư tưởng trên các pháp, chấp nhận hoặc không chấp nhận đều là hai việc cần buông bỏ. Đức Phật nói: “Ta đối với các pháp đều nhận biết, nhưng tất cả đều Vô sở thọ”.

4- Bồ-tát Đức Đảnh nói: Nhơ và sạch là hai, thấy bản chất thật của nhơ thì không thấy có tướng sạch…

Nhơ cũng như sạch, đều không có bản chất thật, tùy nghiệp, tùy các cư xử của mọi loài mà nói nhơ, nói sạch. Nơi đống rác, đống phân vẫn là nhà cửa của vô số loài, bỏ đi cái nhìn dị biệt, có nghĩa là đừng bắt mọi loài nhìn theo ý kiến của mình thì sẽ không thấy trở ngại. Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo:

Pháp thân không ngăn ngại

Nào sạch lại nào dơ

Xưa nay không dơ sạch

Dơ sạch thảy tên suông.

5- Bồ-tát Thiện Túc nói: Động và niệm là hai. Chẳng động ắt là không niệm. Không niệm tức là không phân biệt

Động là sự máy động, chớm khởi động của tâm thức, niệm là cái khởi động đã thành dòng tư tưởng. Cái chớm khởi còn ở tình trạng nguyên sơ, nhưng là đã tách mình ra khỏi khối đồng nhất, nên từ đó dẫn đến niệm tưởng, hễ có niệm tưởng thì mọi việc phân chia, không vào Pháp môn Bất nhị.

6- Bồ-tát Thiệân Nhãn nói: Nhất tướngvô tướng là hai. Nếu biết nhất tướng tức là vô tướng cũng không chấp giữ vô tướng, vào chỗ bình đẳng là vào pháp môn Bất nhị

Có tướng và không tướng thay phiên nhau biểu hiện. Sợ tướng nên tìm đến không tướng cũng còn kẹt hai bên, ngay nơi tướng biết là không có tướng, mọi vật bình đẳng.

7- Bồ-tát Diệu Tý nói: Tâm Bồ-tát và tâm Thanh văn là hai. Quán tâm tướng không, như trò ảo hóa thì không thấy có tâm Bồ-tát khác với tâm Thanh văn, đó là vào pháp môn Bất nhị

Bồ-tát mà còn chấp có tâm Bồ-tát và tâm Thanh văn thì chưa phải Bồ-tát.

8- Bồ-tát Phất Sa nói: Thiện và bất thiện là hai. Nếu chẳng khởi ý cho là thiện, bất thiện, đến bờ mé vô tướng để thông đạt là vào pháp môn Bất nhị

Vẫn thường hằng làm thiện nhưng không chấp trước vào việc của mình, không phân biệt đối xử khi gặp người thiện - bất thiện.

9- Bồ-tát Sư Tử nói: Tội và phước là hai. Nếu thông đạt tánh của tội thì cùng phước không khác… 

Tánh của tội cũng như tánh của phước đều không thật, tội phước phát sanh từ tâm vọng, cho là tội là phước đứng về phía này chống báng phía kia đều là không đúng pháp thể.

10- Bồ-tát Sư Tử Ý nói: Hữu lậuvô lậu là hai. Nếùu chứng đắc các pháp bình đẳng thì không khởi ý niệm về hữu lậu, vô lậu, không chấp tướng cũng không trụ vào vô tướng… 

Sở dĩphiền não là vì không thấy được tánh cách bình đẳng của các pháp. Nếu được tâm như thì đến chỗ vô lậu mà không còn chấp đó là vô lậu.

11- Bồ-tát Tịnh Giải nói: Hữu vivô vi là hai. Nếu lìa tất cả số đếm thì tâm như hư không, do trí tuệ thanh tịnh không chỗ trở ngại mà vào pháp môn Bất nhị

Pháp hữu vi có tạo tác hình tướng nên có số đếm, ở đây lìa tất cả hình tướng đến chỗ tâm rỗng rang nên gọi là nhập pháp môn Bất nhị.

12- Bồ-tát Na-la-diên nói: Thế gianxuất thế gian là hai. Tánh không của thế gian tức là xuất thế gian. Trong đó không vào, không ra, không đầy, không vơi… 

Chán thế gian nên hướng vào xuất thế gian. Lục tổ Huệ Năng nói: “Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mích Bồ-đề. Kháp như tầm thố giác.” Nghĩa là: Phật pháptại thế gian. Không lìa thế gian mà được giác ngộ. Lìa thế gian tìm giác ngộ thì cũng như tìm sừng con thỏ.

13- Bồ-tát Thiện Ý nói: Sanh tử Niết-bàn là hai. Nếu thấy được tánh của sanh tử là không sanh tử. Không trói không mở, không cháy không tắt…

Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh. Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.

14- Bồ-tát Hiện Kiến nói: Tận và bất tận là hai. Nếu là pháp cứu cánh tận cũng như bất tận đều là tướng vô tận… 

Khi chúng ta phân biệt thì các pháp kéo dài, mong cho tận cùng hay không tận cùng cũng đều sai.

15- Bồ-tát Phổ Thủ nói: Ngã và vô ngã là hai. Ngã còn chẳng thể đắc làm sao đắc được phi ngã…

Thông thường chúng sanh chấp ngã, nhưng thật ra đó chỉ là cái hiểu biết về ngã không đến nơi đến chốn, cho nên rốt cuộc nói ngã, nói vô ngã cũng chỉ trên ngôn ngữ.

16- Bồ-tát Điện Thiên nói: Minh và vô minh là hai. Thật tánh của vô minh là minh. Minh cũng không thể giữ lấy, lìa tất cả số lượng trong ấy bình đẳng không hai.

Vô minh là mê mờ điên đảo, vô minh không có tánh chất thật cố định, nếu vô minh cố định thì làm sao tu? Biết được điều này là minh cũng đừng chấp tướng minh cố định vĩnh viễn.

17- Bồ-tát Hỷ Kiến nói: Sắc, không là hai. Sắc tức là không, phi sắc cũng là không… 

Đây thuộc về lý Bát-nhã.

18- Bồ-tát Minh Tướng nói: Tứ đạiKhông đại khác nhau, là hai. Tánh của tứ đại là tánh của không đại… Nếu biết tánh các đại là như vậy tức nhập pháp môn Bất nhị.

Tứ đại chủngkhông đại chủng đều từ nguồn gốc ban đầunhất tâm, thế nên bản tánh đồng. Chỉ vì theo duyên nghiệp chúng sanh mà thấy có khác.

19- Bồ-tát Diệu Ý nói: Nhãn cănsắc trần là hai. Nếu biết tánh của nhãn căn đối với sắc không tham, không sân, không si, đó gọi là tịch diệt vắng lặng. Năm căn và năm trần còn lại cũng giống như thế, các căn đối với các trần không bị chi phối là vào pháp môn Bất nhị

Các Thiền sư thường nói: Căn trần không đến nhau là giải thoát. Vào pháp môn Bất nhị là vào chỗ giải thoát ấy.

20- Bồ-tát Vô Tận Ý nói: Bố thíhồi hướng Nhất thiết trí là hai. Cho đến trì giới… đối với hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Tánh của bố thí… là thật tánh của hồi hướng Nhất thiết trí. Ở trong ấy vào một tướng là pháp môn Bất nhị.

Hành lục độ là tiến đến Phật đạo, hồi hướng Nhất thiết trí cũng tiến đến Phật đạo, nên chỉ cần vào một tướng cũng đủ.

21- Bồ-tát Thâm Tuệ nói: Không, vô tướng, vô tác là hai (khác nhau nên thấy hai). Không tức là vô tướng, vô tướng tức là vô tác, vào một môn giải thoát tức vào ba môn giải thoát

Ý này giống ý trên.

22- Bồ-tát Tịch Căn nói: Phật, Pháp, Tăng là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng. Tam bảo đều là tướng vô vi, bình đẳng như hư không, tất cả pháp cũng thế.

Đối với Tam bảo là ba ngôi báu, các pháp dù quý dù tiện cũng đều bình đẳng. Lục Tổ nói: Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là thanh tịnh. Quy y Tam Bảotrở về với ba đức tính sẵn có nơi một thân ta.

23- Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói: Thân và thân hoại là hai. Thân tức thân hoại. Vì sao? Người thấy thật tướng của thân tức không thấy thân và thân hoại. Thân và thân hoại không hai, không thể phân biệt, đối với điều này không kinh sợ là vào pháp môn Bất nhị.

Vì yêu thích thân nên sợ mất thân, đó là còn thấy hai.

24- Bồ-tát Thượng Thiện nói: Thân, khẩu, ý lành là hai. Ba nghiệp đều không có tướng tạo tác… Nếu hay theo được tuệ không tạo tác đó là vào pháp môn không hai.

Làm lành mà không thấy có làm, đó là tuệ vô tác.

25- Bồ-tát Phước Điền nói: Phước hạnh, tội hạnh và bất đồng hạnh là hai. Tánh thật của ba hạnh ấy là không… 

Làm tội và làm phước là một bên, không làm tội phước tức là bất động nghiệp, nghiệp vô vi, cho đó là một bên. Không khởi tâm về bên này hay bên kia nên vào pháp môn Bất nhị.

26- Bồ-tát Hoa Nghiêm nói: Từ ngã khởi nhị biên là hai. Thấy thật tướng của ngã thì không khởi pháp hai bên, không ở trong nhị biên đó là Vô sở thức… 

Từ chấp có ta nên khởi lên thấy các pháp ngoài ta, đó là nhị biên, thấy có mình, người, chúng sanh… Nếu thấy ta không thật thì mọi cái thấy khác đều mất.

27- Bồ-tát Đức Tạng nói: Có tướng sở đắc là hai. Nếu không sở đắc ắt là không lấy, không bỏ. Không lấy, bỏ là vào pháp môn Bất nhị

Tướng sở đắc gồm hai phần: năng đắc và sở đắc. Vì có năng thì có sở, chia hai bên. Không năng sở thì an nhiên vô vi.

28- Bồ-tát Nguyệt Thượng nói: Tối với sáng là hai. Không tối không sáng ắt không có hai. Như nhập Diệt thọ tưởng định không tối không sáng… 

Đối với sự cảm thọ các pháp như không gian, thời gian ánh sáng… đều lặng lẽ thì gọi là nhập pháp môn Bất nhị, trong đó chỉ có dòng tâm trôi chảy, đôi khi không cần ánh sáng ta vẫn thấy biết.

29- Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói: Thích Niết-bàn chán ghét thế gian là hai. Nếu chẳng thích Niết-bàn chẳng ghét thế gian thì không có hai. Vì sao? Nếu có trói ắt có mở, nếu vốn không bị trói thì ai cầu mở. Không buộc không mở không ưa không chán là vào pháp môn Bất nhị

Chọn lựa thì sẽ có vui buồn theo sau.

30- Bồ-tát Châu Đảnh Vương nói: Chánh đạotà đạo là hai. Người trụ chánh đạo thì không phân biệt là tà là chánh. Lìa hai cái này là vào pháp môn Bất nhị.

31- Bồ-tát Nhạo Thật nói: Thật và chẳng thật là hai. Người thấy thật còn không thấy chỗ thật chẳng thật. Vì sao? Chỉ có tuệ nhãn mới thấy được. Nhưng tuệ nhãn không thấy mà chỗ nào cũng thấy, đó là vào pháp môn không hai.

Đại ý hai vị Bồ-tát này nói đến chỗ chân lý chính đáng thì không chia đây kia hơn kém. Người giải thoát thật sự chẳng màng gì những so đo.

*

Ba mươi mốt vị Bồ-tát đều nói về pháp môn Bất nhị, mỗi người mỗi cách trình bày, nhưng đều gặp nhau ở chỗ tận cùng lẽ thật, chỗ không cho ý niệmngôn ngữ có thể chen vào. Bồ-tát là luôn luôn nêu lý tưởng đạt đến chân thật rốt ráo, luôn ở trong giải thoát. Nhưng qua lời các Ngài nói thì chỗ giải thoát thật sự chính là chỗ đất tâm không dính. Không còn chia phân. Đâu đâu cũng là viên minh tròn sáng. 

Cuối cùng ngài Văn-thù nói rằng: “Theo ý tôi đối với tất cả pháp không nói, không thuyết, không chỉ bày, không ý niệm, lìa vấn đáp là đến chỗ pháp môn Bất nhị.” 

Đây là lời tổng kết, nói đến đây rồi mà hỏi Duy-ma-cật thì Ngài chỉ lặng thinh, “Thời Duy-ma-cật mặc nhiên vô ngôn”.

Sự im lặng của Duy-ma-cật là một lời kết thúc hay nhất, chấm dứt mọi ngôn ngữ. Nói hay không nói đều chẳng ra ngoài tâm, lời các Ngài nói đã nhiều rồi. Ở đây Duy-ma-cật hiển lộ chỗ không lời, “Chốn không lời là muôn tiếng ca”. Đời sau ca ngợi Duy-ma-cật là im lặng sấm sét. Nhưng phải đi qua hết những giai đoạn mà các vị Bồ-tát trình bày ở trên rồi mới đến chỗ này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13693)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13769)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15078)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17689)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17103)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13173)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14427)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16740)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18597)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19032)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18843)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21148)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14781)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39153)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19347)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14696)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16137)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39103)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24497)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14368)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21439)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19683)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13877)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21891)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16734)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15232)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14526)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14034)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14337)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15645)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14306)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15003)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18535)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24657)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23096)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28532)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15060)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14102)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14629)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18282)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26507)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15180)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14830)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15189)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15133)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant