Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa

02 Tháng Sáu 201618:49(Xem: 14844)
Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa
KINH PHỔ MÔN

GIẢI NGHĨA
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Quyển Thứ Bảy

Phẩm Thứ Hai Mươi Lăm:

 “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn


Hán dịch:
 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh

Giải nghĩa: Cư Sĩ Toàn Không

Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa

 

GIẢI NGHĨA ĐỀ KINH:

 Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng đậm là lời kinh, chữ thẳng đứng để giải thích, chúng ta cùng theo dõi sau đây:

 

ĐỀ KINH:

 

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN.

 

GIẢI NGHĨA:

Quán là coi xét soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng như quán tưởng, chỉnh lý lại sửa đổi lại, Quan là chú ý xem, ý thức.

Thếthế gian, có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật, ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng con người, còn có nghĩa là bỏ đi, thay cho, cắt đi dãy đi cỏ hoang.

Âm là tiếng nói âm vang, là không rõ ràng như âm u tượng trưng của những sự không tốt lành.

Quán Thế Âm: Nghĩa là coi xét tiếng nói lời than của thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ Tát, ngài quán xét lắng nghe những lời kêu than của chúng sinh và khởi lòng từ bi thương xót cứu độ họ. Nghĩa thật là biểu trưng danh hiệu "Nhân cách hóa một phương pháp tu tập", là quán sát coi xét xa lià bỏ đi những khúc mắc, dính mắc, buồn phiền, những điều u tối trong tâm, ở đây có ý nghĩatu hành, quán xét dứt trừ những vọng tưởng trong tâm liên tiếp khởi lên.

Phổ là rộng khắp, Môn là cửa, Phổ Môn là cửa mở rộng cùng khắp thông suốt không giới hạn; cửa mở rộng cùng khắp này là cửa pháp rộng lớn thông suốt khắp tất cả, không giới hạn, tượng trưng cho Pháp Môn tu hành mà ai cũng có thể vào tu được cả.

*

*   *

GIẢI NGHĨA KINH VĂN:

KINH VĂN 1:

NHÂN DUYÊN TÊN QUÁN THẾ ÂM

Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?"
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử (3)! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

GIẢI NGHĨA:

(1) Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: Vô tận là không cùng tận, vô lượng vô biên, Ýý nghĩ, suy nghĩ, tưởng nhớ, Bồ Tát là chỉ một vị Thánh trong Phật giáo Bắc truyền, nói cho đủ thì đó là «Bồ-đề tát-đỏa», chữ Phạn là Bodhisattva, dịch nghĩa là «Giác hữu tình»; chữ hữu tình là có khí huyết, chỉ chúng sanh. Bồ tát là một chúng sanh đã giác ngộ về “chỉ làm việc lành không làm việc ác”; Bồ Tát Vô Tận ý nghĩa là vị Bồ Tát đại diện tượng trưng cho chúng sinh có đủ các thứ suy nghĩ, có vô lượng tưởng nhớ muôn vàn sự việc.

 

(2) Trịch áo bày vai hữu: Chính là vai bên phải, để lộ bên vai phải là có ý nghĩa:

Thứ nhất: Theo phong tục của người Ấn, khi khí trời nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra.

Thứ hai: Hở vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân và tâm, một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự cung kính.

(3) Thiện-nam-tử: Thiện có nghĩa là không nghĩ không nói không làm việc ác, như không sát sinh trộm cướp tà dâm nói dối uống rượu; Thiện nam tử chính là người giữ đầy đủ 5 giới và làm nhiều điều thiện vậy.

     Khởi đầu Kinh Văn 1, Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Đức Phật rằng: “Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?Đức Phật trả lời rằng: “Nếu có vô schúng sanh bị các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh”, có nghĩa là nếu có vô số chúng sinh bị các khổ não mà một lòng chuyên niệm nhất tâm, quán sát suy ngẫm nguyên nhân gây ra sự khổ não, coi xét thấy các khổ não ấy là không thật, là giả, là huyển có.

     Rồi xa lià bỏ đi đoạn dứt các huyển khổ và nguyên nhân gây ra khổ ấy, lại chuyên làm các việc tốt lành, tránh làm các việc xấu ác để gây nhân tốt, thì những buồn phiền sẽ không còn hoành hành nữa, tức là được giải thoát khỏi các khổ não, vì thế cho nên Đức Phật nói câu: “tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” là vậy.

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này: Nghĩa là nếu người nào không nghĩ chuyện gì khác, thực hành chỉ một lòng nhất tâm niệm cho nhu nhuyễn (trì), nghiệm xét (Quán); rồi bỏ đi dứt trừ những sự tương tục của tâm tư vọng tưởng (Thế), xa lià những vọng tưởng, những điều u tối, những ràng buộc, những gì gọi là tiêu cực trong tâm (Âm).

     Khi đã quán chiếu tu luyện như thế được đầy đủ nhu nhuyễn rồi, thì sức dụng tự tính hiện và các khổ nạn được giải thoát, vì vậy Đức Phật nói: “thì dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy”, tại sao? Vì lửa tượng trưng cho sự sân giận hận thù ngút trời, khi tu luyện kiên cố, nghĩa là quán sát thấy rõ ràng sự sân hận là ung nhọt là gai nhọn, nó tai hại vô cùng, cần phải xa lià rời bỏ nó.

     Quán chiếu tư duy như thế rồi, vị ấy gạn lọc tâm để không còn một chút suy nghĩ tưởng nhớ về sân giận, thì những sân hận làm sao còn hiện hữu trong tâm, sự sân hận không còn thì làm gì còn lửa để hại vị ấy nữa. Bởi vậy mới nói là “do sức oai thần của Bồ Tát làm việc này mới được như vậy” đó. Chứ chẳng phải do Bồ Tát Quán Thế Âm dùng thần thông đến, dùng phép cứu nạn chúng sinh bị lửa đốt, khiến lửa không thể cháy mà lầm to và rơi vào mê tín từ bao lâu nay mà nhiều người không biết.

Nếu bị nước lớn làm trôi: Nước tượng trưng cho tham ái như nghe tiếng đàn ca du dương ủy mị, nghe lời nói ngọt ngào, giọng nói nịnh bợ tâng bốc, tâm thần dễ bị mê mẩn, bị cuốn trôi nhận chìm trong tham ái, từ đó dẫn đến khổ đau. Như nghe lời nịnh hót khiến bị lừa đảo, hậu qủa là đau khổ; tánh luyến ái này được ám chỉ như một hình thức bị cuốn trôi nhận chìm trong nước.

Nếu xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn: Tại sao được vậy? Vì nếu tu hành tới mức, nghĩa là quán xét để thấy rõ những tham lam luyến ái như lưới bắt, như bẫy sập, như mồi nhử, như bả thơm ngon mà độc hại. Quán sát thấy như thế rồi thì không còn tham ái nữa mà xa lià chúng, rời bỏ chúng.

Như vậy sẽ không còn bị tham ái hành hạ đưa đến khổ đau mà được thoát khỏi những thứ ấy, ví như bị nước cuốn trôi nhận chìm mà được vào chỗ cạn vậy. Chứ chẳng phải bị nước cuốn trôi rồi cầu xin Quán Thế Âm đến cứu đâu mà lầm lẫn to lớn, vì như thế là rơi vào tin Thần quyền mê tín dị đoan nhảm nhí, sẽ bị Đức Phật quở là người u mê.

     Muốn khỏi bị những tai họa lửa nước thật sự, thì phải tu nhân tích đức bằng cách tu hạnh Bồ Tát là làm tất cả các việc lành, tránh làm tất cả các việc ác theo Giới luật cho người tu đạo Bồ Tát, gồm 6 Giới trọng và 28 Giới khinh. Nhưng còn phải hỏi người tu này có gây trọng tội trong các đời trước hay không.

      Nếu khôngtrọng tội nào đã gây, thì chẳng thể gặp qủa xấu tai họa, còn đã từng gây trọng tội ở những kiếp trước rồi thì khó mà thoát khỏi tai họa. Chỉ có điều là khi đã có sự tu hành thì hy vọng công đức tu hành này làm cho nghiệp ác kia khó hiển hiện ra, và như vậy là có tu có phúc lành vậy.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

Các thứ qúy như vàng, bạc, v.v… gọi là Thất Bảo, tượng trưng cho Thất Thánh Tài là tín, giới, văn, tàm quý, niệm, định, xả của người tu, nghĩa là người tu phải học hỏi Kinh Luận Luật của Phật rồi suy nghĩ điều phải điều trái, ghi nhớ không quên (Văn), khi đã suy nghiệm kỹ càng rồi thì phải tin tưởng hoàn toàn (Tín).

 

     Phải giữ luật nghi đầy đủ theo quy củ phần hành của hành giả (Giới), (Như Cư sĩ giữ 5 Giới, Bồ Tát tại gia 6 Giới trọng và 28 Giới khinh, Bồ Tát xuất gia 10 giới trọng và 48 Giới khinh, Tu sĩ nam 250 Giới, Tu sĩ nữ 348). Người tu phải biết tự xấu hổ và biết thẹn với người khi có lỗi (Tàm, Qúy), phải luôn luôn nhớ tu hành (Niệm), phải hành thiền và biết cách làm sao để định tâm (Định), và biết bỏ đi tất cả những gì dính mắc vào tâm (Xả).

 

Trong biển lớn tượng trưng cho trong cuộc đời, thuyền tượng trưng cho trong cộng đồng, một xã hội, một nước v.v…

Gió lớn tượng trưng cho Tám thứ gió trong cuộc sống bon chen là “Được Mất (thắng bại), Đúng Sai (phải trái), Vinh Nhục (hơn thua), Vui Buồn (sướng khổ)”. Tám thứ gió này nó là mồi bả của thế gian, nó luôn luôn hành hạ con người, làm cho con người bị cuốn trôi theo dòng đời, làm cho bị quay cuồng trong cuộc sống, khiến đầu óc con người trở thành điên đảo tối tăm, gây nên bao nhiêu phiền toái, tội ác, tạo nghiệp qủa phải sinh tử luân hồi vào các đường lành thì ít mà vào đường ác thì nhiều, không có ngày ra khỏi.

Nước Qủy La Sát tượng trưng tánh độc hại hung bạo tàn ác giết người. Nhẫn là khó nói ra lời.

 

Nếu trong ấy có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm thì các người đó đều được thoát nạn Qủy La Sát, nghĩa là trong số những người ấy dù chỉ có một người thôi, nói chi nhiều người, tu hành nghiêm chỉnh. Quán sát Tám thứ gió, suy xét tham sân si mạn v.v…, thấy chúng gây nên tánh độc hại hung bạo tàn ác giết hại là nguồn gốc của mọi đau khổ.

 

     Từ đó xa lià dứt bỏ những thứ này, thực hành Sáu độ là “Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, Trí Tuệ”, thì sẽ tiến đến giải thoát. Được giải thoát rồi, người đó sẽ độ cho hết thảy các người khác, các người khác được gần người đã giải thoát nên học hỏi giáo phápthực hành theo thì sẽ đều được thoát khổ, do đó Đức Phật nói “các người đó đều được thoát nạn Qủy La Sát” là vậy.

 

    Chẳng phải đâu, nếu cho rằng khi đoàn người đông đảo đi tìm trân bảo trong biển lớn bị bão tố thổi thuyền trôi rạt vào đảo đầy qủy ăn thịt người. Rồi chỉ cần một người chẳng tu hành gì cả, vì sợ chết mà phải cầu nguyện niệm Quan Thế Âm hay cầu xin van nài vị Thần linh nào đó cứu nạn, mà mọi người trong đoàn ấy đều được thoát nạn, thì đây là lầm lẫn to lớn, cần phải tỉnh táo suy nghĩ quán sát sẽ thấy rõ được sự lầm lẫn tai hại này.

 

Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm: nghĩa là do nhân duyên quán xét Tám thứ gió và tham sân si mạn v.v…, nên thấy rõ chúng là nguyên nhân gây ra tánh độc hại hung bạo tàn ác giết hại. Vì thấy rõ ràng nó là nguyên nhân của đau khổ buồn phiền, nên quyết tâm xa lià dứt bỏ nó như vứt bỏ chiếc áo dơ bẩn rách nát hôi tanh và tu hành nghiêm chỉnh để giải thoát khỏi mọi ràng buộc của những xấu xa tai hại ấy, do đó Đức Phật nói: “Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

 

(Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13772)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15087)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17694)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17111)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13179)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14443)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19749)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16744)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18618)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19048)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18855)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21167)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14793)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39169)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14404)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19366)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14707)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16140)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14702)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15230)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15560)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39123)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14118)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24511)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14384)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19444)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18010)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21453)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17509)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14827)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13880)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13762)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14113)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21898)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14540)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14048)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15666)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14318)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15015)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18544)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24673)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23108)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28548)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15071)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14115)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14645)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18293)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26518)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15192)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14843)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15197)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15135)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant