Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Phẩm thứ bảy: Cơ duyên

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13036)
7. Phẩm thứ bảy: Cơ duyên

KINH PHÁP BẢO ĐÀN
HUỆ NĂNG LỤC TỔ

Soạn thuật: Pháp Hải - Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải

PHẨM THỨ BẢY
CƠ DUYÊN

Sư từ Hoàng Mai đắc pháp, về đến Thiều Châu, thôn tào Khê, không ai biết. Bấy giờ, có nho sĩ Lưu Chí Lược, cúng dường trong hậu. Chí Lược có người cô làm Ni tên Vô Tận Tạng thường tụng Kinh Đại Niết Bàn. Sư vừa nghe qua đã biết ý nghĩa thâm diệu, bèn giải nói. Ni bèn cần quyển Kinh hỏi chữ. Sư bảo:

 - Chữ thì không biết cứ hỏi nghĩa đi.

 Ni bảo:

 - Chữ mà không biết làm sao hiểu nghĩa?

Sư dạy:

- Diệu lý của chư Phật can hệ gì văn tự?

Ni kinh dị, bảo khắp bậc kỳ đức trong làng rằng: “Đây là bậc Đại sĩ,nên thỉnh cúng dường”.

 Bấy giờ, có Tào Thúc Lương cháu nội Ngụy Võ Hầu cùng với dân làng đến lễ bái. Cổ tự Bảo Lâm từ cuối đời Tùy bị tàn phế vì binh lửa, nay ở nền cũ, họ xây lại một ngôi chùa thỉnh Sư đến an trú, chẳng bao lâu đã thành bảo địa. Sư an trú được chín tháng hơn, lại bị bọn ác nhân săn tìm. Sư lánh vào ngọn núi phía trước, bị bọn bên kia phóng hỏa. Sư bèn ẩn thân trong đá mà thoát được. tảng đá ấy nay còn dấu ngồi kiết già của Sư, cùng với lằn y trải ra, do đó mang tên là đá tỵ nạn. sư nhớ lời ngũ Tổ dặn dừng ở Hoài, ẩn ở Hội, nên đã ở hai nơi ấy.

Tăng Pháp Hải, người ở Khúc Giang thuộc đất Thiều Châu, khi mới đến tham bái Tổ sư, hỏi rằng:

- Tức tâm tức Phật là sao? Xin thương xót chỉ dạy.

Sư dạy:

- Niệm trước không sanh tức tâm, niệm sau không diệt tức Phật. thành hết thảy tướng tức tâm, lìa hết thảy tướng tức Phật. Nếu nói đủ, trọn kiếp không cùng. Hãy nghe kệ của ta:

 Tức tâm là tuệ
Tức Phật là định
Định tuệ quân bình
Ý thường thanh tịnh
Ngộ pháp môn này
Do người tập tánh
Dụng vốn vô sanh
Song tu là chánh.

 Pháp Hải đại ngộ, bèn làm kệ tán thán:

 Tức tâm nguyên là Phật
Không ngộ nên tự khuất
Tôi biết nhân định tuệ
Song tu lìa các vật.

Tăng Pháp Đạt người ở Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia thường tụng Kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ, đầu không chấm đất.

 Tổ quở rằng:

 - Lạy mà đầu không sát đất, sao bằng đừng lạy. Trong lòng ngươi chắc còn một vật. Ôm giữ cái gì thế?

 Đáp:

 - Niệm Kinh Pháp Hoa đã đến ba ngàn bộ.

 Tổ dạy:

 - Dù niệm tới vạn bộ, hiểu được ý Kinh, cũng không lấy làm đắc thắng, mới là cùng ta đồng hành. Người nay đã phụ sự nghiệp ấy mà tuyệt nhiên không biết lỗi. Hãy nghe kệ của ta:

 Lạy cốt bẻ cờ kiêu
Đầu nếu không sát đất
Có ngã tội liền sanh
Quên công phước vô lượng.

Sư lại dạy:

 - Ngươi tên chi?

 - Tên Pháp Đạt.

 - Ngươi tên Pháp Đạt, mà chưa từng đạt Pháp.

 Lại nói kệ rằng:

 Ngươi nay tên Pháp Đạt
Siêng tụng chưa từng nghỉ
Luống đọc theo âm thanh
Minh tâm mới Bồ Tát
Ngươi nay có nhân duyên
Ta sẽ vì ngươi nói
Tin rằng Phật vô ngôn
Hoa sen từ miệng xuất.

 Đạt nghe kệ sám hối mà thưa:

 - Từ nay trở đi, con xin khiêm hạ với tất cả. Đệ tử tụng Kinh Pháp Hoa mà chưa từng hiểu nghĩa, tâm thường nghi. Hòa thượng trí tuệ quảng đại, xin từ bi nói tóm lược nghĩa lý cho con.

 - Pháp Đạt! Pháp tức rất đạt, mà tâm ngươi không đạt. Kinh vốn không nghi, tâm ngươi tự nghi. Kinh này lấy gì làm tông?

 - Bạch, đệ tử căn tánh tối chậm lâu nay chỉ theo văn mà tụng niệm đâu biết tông thú. Xin Hòa thượng chỉ dạy cho.

 - Ta không biết chữ, ngươi thử cầm Kinh đọc một lượt, ta sẻ giảng cho.

 Pháp Đạt bèn cao giọng đọc, đến phẩm Thí Dụ, Sư bảo:

 - Thôi! Kinh này nguyên lai lấy nhân duyên Phật xuất thế làm tông. Dù có nói lắm ví dụ cũng không ngoài ý này. Nhân duyên là sao? Kinh dạy: “Chư Phật Thế Tôn duy vì một đại sự nhân duyênhiện ra đời”. Một đại sự ấy chính là tri kiến Phật vậy. Người đời bên ngoài thì mê chấp tướng, bên trong thì mê chấp không. Nếu có thể nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không, tức là trong ngoài đều không mê. Ngộ được pháp ấy, một niệm tâm khai, ấy là mở tri kiến Phật. Phật là giác. Giác chia ra bốn môn: Khai giác tri kiến, thị giác tri kiến,ngộ giác tri kiến, nhập giác tri kiến. Nếu nghe khai thị, có thể ngộ nhập, thì giác tri kiến, chơn tánh xưa nay được xuất hiện. Ngươi thận trọng chớ hiểu lầm ý Kinh, thấy Kinh nói khai thị ngộ nhập, mà cho rằng đó là tri kiến Phật, còn ta không có gì. Nếu hiểu như vậy là hủy báng Kinh, chê bai Phật vậy. Phật đã là Phật, đã đủ tri kiến thì còn khai mở làm gì. Ngươi nên tin rằng, Phật tri kiến ấy là chỉ tự tâm ngươi, ngoài ra không có Phật nào khác. Bởi vì hết thảy chúng sanh tự che lấp ánh quang minh của mình, tham ái trần cảnh, vì cơ hội ở ngoài, vì rối loạn bên trong mà chịu rong duỗi, phiền cho Thế Tôn phải xuất khỏi Tam muội mà nói đủ lời khắc khổ để khuyên hãy dừng nghỉ, chớ hướng ngoại tìm kiếm, thì cùng với Phật không khác, nên gọi là khai Phật tri kiến.

Tôi khuyên mọi người ngay nơi tự tâm mình, thường khai tri kiến Phật. Người đời tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng lành tâm ác, tham sân ganh ghét, dua nịnh kiêu căng, tổn người hại vật, như vậy là tự mở cái tri kiến chúng sanh ra. Nếu chánh tâm lại, thường phát sanh trí tuệ, quán chiếu tự tâm, dứt ác làm lành, đó là tự khai tri kiến Phật. các người nên thường khai tri kiến Phật trong từng mỗi niệm, chớ có khai tri kiến chúng sanh gọi là thế gian. Nếu các người cứ chuyên một mực khó nhọc giữ chặt niệm không buông cho là công phu, thì có khác gì loài trâu mến tiếc cái đuôi của nó.

 Pháp Đạt hỏi:

 - Nếu vậy thì chỉ cần hiểu nghĩa lý, không cần tụng Kinh hay sao?

 Sư dạy:

 - Ý Kinh có lỗi gì mà phải ngăn cấm người niệm. Mê ngộ ở nơi người, hại hay là lợi đều do ở nơi mình mà ra. Miệng tụng tâm hành, ấy là chuyển được Kinh. Miệng tụng tâm không hành, ấy là bị Kinh chuyển. Hãy nghe kệ của ta:

 Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng Kinh lâu không hiểu
Với nghĩa lý thành thù
Vô niệm niệm là chánh
niệm niệm thành tà
không không đếm xỉa
Xe trâu trắng thường ngồi.

 Pháp Đạt nghe kệ đại ngộ, bất giác rơi lệ, bạch Sư rằng:

 - Pháp Đạt từ xưa đến nay, quả thật chưa từng chuyển Pháp Hoa, mà lại bị Pháp Hoa chuyển.

 Lại bạch:

 - Kinh dạy các bậc đại Thanh Văn đến Bồ Tát đều hợp sức cùng suy lường mà cũng không lường được trí Phật. Nay Ngài bảo kẻ phàm phu chỉ cần tự ngộ tâm thì gọi là tri kiến Phật. Điều ấy nếu không phải bậc thượng căn thì không khỏi nghi hoặc. Lại Kinh dạy ba xe: xe dê, xe hưu và xe trâu trắng, khác nhau thế nào? Xin Hòa thượng từ bi khai thị cho.

 Sư dạy:

 - Kinh thật rõ, chỉ ngươi tự mê. Những người trong ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát sở dĩ không thể suy lường được trí Phật, lỗi chính là tại suy lường. Nhiều người tận lực cùng nhau suy lường thì lại càng thêm sai, Phật vì phàm phu mà nói. Lý này nếu không chịu tin thì phải rút lui khỏi giảng đường theo những vị kia trong Kinh, tuyệt nhiên không biết mình đã ngồi trên xe trâu trắng lại ra ngoài cửa đi tìm ba xe. Huống nữa văn kinh nói rõ với ngươi rằng chỉ có Phật thừa, không có thừa nào khác, dù hai hay ba, cho đến vô số phương tiện diễn nói như nhân duyên, thí dụ v.v… (trong mười hai bộ loại), tất cả pháp này để nói lên một Phật thừa duy nhất. Sao ngươi không tỉnh ngộ ba thừa là giả, vì thời quá khứ mà nói; một thừa là thật, vì thời hiện tại mà nói; chỉ dạy ngươi bỏ giả quay về thật, sau khi quay về thật thì cái thật ấy cũng không có tên. Nên biết bao nhiêu của cải châu báu đều thuộc về ngươi, tùy ngươi thọ dụng đến không còn nghĩ tưởng về cha, cũng không nghĩ tưởng về con, cũng không còn cái tưởng nghĩ về thọ dụng, ấy gọi là trì Kinh Pháp Hoa, từ kiếp này qua kiếp khác tay không rời Kinh, đêm ngày không lúc nào không niệm Kinh vậy.

 Đạt nhờ khai phát, tâm thư thái hoan hỷ làm kệ rằng:

Tụng Kinh ba ngàn bộ
Tào Khê một câu quên
Chưa rõ nghĩa xuất thế
Khó dứt mê nhiều đời
Dê hưu trâu giả đặt
Đầu giữa cuối khéo phô
Ai ngờ trong nhà lửa
Vốn sẵn đấng Pháp Vương.

 Sư dạy:

 - Ngươi từ nay trở đi mới đáng gọi là ông thầy niệm Kinh vậy.

 Pháp Đạt lãnh hội ý chỉ sâu xa, từ đấy tiếp tục tụng Kinh không dứt.

 Tăng Trí Thông, người đất An Phong, Thọ Châu, lúc đầu xem Kinh Lăng Già có đến hơn ngàn lần mà không hiểu ba thân bốn trí, đảnh lễ Sư xin giải nghĩa ấy. Sư dạy:

 - Ba thân là: Thanh tịnh Pháp thân, tức tánh của ông. Viên mãn Báo thân, tức trí của ông. Thiên bách ức Hóa tức thân, hạnh của ông. Nếu lìa bản tánh mà nói ba thân tức là có thân không trí, nếu ngộ ba thân không có tự tánh ấy gọi là bốn trí Bồ đề. Hãy nghe kệ của ta:

Tự tánh đủ ba thân
Phát minh thành bốn trí
Chẳng rời duyên thấy nghe
Tự nhiên lên đất Phật
Ta nay bảo ông biết
Tin chắc tuyệt không
Chớ học kẻ tìm gươm [4]
Trọn ngày nói Bồ đề.

 Thông lại hỏi:

 - Nghĩa của bốn trí là sao, xin cho con được nghe?

 - Đã hiểu ba thân thì cũng rõ luôn bốn trí, sao còn hỏi nữa? Nếu lìa ba thân mà nói bốn trí ấy là có trí không thân, có trí như vậy cũng thành không trí.

 Sư lại dạy bài kệ:

Đại viên cảnh Trí là tánh thanh tịnh 
Bình đẳng tánh Trítâm không tịnh
Diệu quan sát Trí thấy như không 
Thành sở tác Trí giống viên cảnh
Năm tám chuyển quả, sáu bảy nhân
Chỉ dùng tên gọi không thật tánh
Nếu cảnh đổi thay tình không đắm [5]
Tha hồ an trú trong đại định

Trên đây là chuyển thức thành trí vậy. Giáo lý dạy rằng: Chuyển năm thức trước thành Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí. Tuy thức thứ sáu và bảy chuyển trong nhân, năm thức trước và thức thứ tám chuyển ở quả, nhưng chỉ chuyển cái tên mà không chuyển cái bản thể.

 Thông đốn ngộ được tánh trí, trình kệ rằng:

Ba thân: bản thể mình
Bốn trí vốn tâm minh
Thân trí dung không ngại
Theo vật mà hiện hình
Khởi tu đều vọng động
Chấp thủ trái chơn tịnh
Nhờ Sư mà hiểu đạo
Tuyệt hết danh nhiễm ô.

 Tăng Trí ThườngTín Châu, Quý Cốc đến tham lễ. Sư hỏi:

 - Ngươi từ đâu đến?

 Đáp:

 - Đệ tử ở gần Hồng Châu, núi Bạch phong, trước đây đến tham lễ Hòa thượng Đại Thông xin chỉ dạy ý nghãi kiến tánh thành Phật, nhưng chưa dứt được nghi, nay đến xin Hòa thượng dạy bảo.

 - Đại Thông Hòa thượng dạy ngươi những gì, thử nói ra xem.

 - Dạ, con tới đã ba tháng mà chưa được Ngài chỉ dạy điều gì cả. Một buổi chiều nọ, vì tha thiết cầu pháp, con một mình vào trượng thất hỏi Hòa thượng, bản tâm bản tánh của con là thế nào. Đại Thông dạy: “Ngươi có thấy hư không chăng?”. Con đáp: “Thấy”. Ngài nói: “Ngươi thấy hư khôngtướng mạo không?”. Con trả lời: “Hư không thì vô hình, đâu có tướng mạo gì”. Hòa thượng dạy: “Bản tánh của ngươi cũng như hư không, tuyệt đối không một vật gì có thể thấy được. Như thế gọi là thấy chơn chánh. Không một vật gì có thể biết được, ấy gọi là biết chơn chánh. Không có xanh vàng dài ngắn, chỉ thấy nguồn gốc thanh tịnh, giác thể viên minh, ấy gọi là kiến tánh thành Phật , cũng gọi là tri kiến Phật”.

Bạch Hòa thượng, đệ tử tuy nghe lời dạy ấy vẫn chưa quyết nghi được, xin Hòa thượng khai thị.

 Sư dạy:

 - Lời dạy của vị Sư kia còn giữ cái kiến tri, nên khiến ngươi chưa hiểu. Ta nay khai thị cho ngươi một bài kệ:

 Không thấy một pháp mà còn cái thấy không
Thì không khác đám mây che mặt trời
Không biết một pháp nhưng còn cái biết không
Cũng như giữa thái hư sanh điện chớp
Thấy biết như vậy càng thêm rối loạn
Nhận thức lầm lẫn thì làm sao hiểu được phương tiện
Ngươi hãy trong một niệm tự biết lỗi
Thì ánh linh quang nơi mình thường hiện rõ.

Trí Thường nghe kệ xong tâm ý khai ngộ, trình kệ rằng:

Tự dưng khởi tri kiến
Chấp tướng cầu Bồ đề
Còn giữ một niệm ngộ
Không hết mê lầm xưa
Tánh thể vốn là giác
Luống theo dòng chiếu soi
Không vào thất Tổ
Thì vẫn còn mờ mịt.

 Lại hỏi Sư:

 - Phật dạy ba thừa, lại còn dạy Tối thượng thừa, đệ tử chưa hiểu, xin Ngài chỉ dạy.

 - Ngươi hãy quán tự tâm, chớ chấp vào pháp tướng ở ngoài. Pháp không có bốn thừa, tâm ngươi có sai khác. Kiến văn dần dần mới thông là Tiểu thừa, ngộ pháp hiểu nghĩa là trung, theo pháp tu hành là Đại. Vạn pháp đều thông, vạn pháp đều đủ, không nhiễm trước hết thảy, lìa các pháp tướng, không sở đắc một vật, ấy là Tối thượng thừa. Thừa nghĩa là thực hành, không do miệng tranh luận. Ngươi hãy tự tu, chớ hỏi ta nữa. Hay trong mọi lúc, tự tánh không dời đổi.

Tăng Chí Đạo, người Quảng Châu, Nam Hải, bạch:

 - Đệ tử từ khi xuất gia, xem Kinh Niết bàn hơn mười năm, mà chưa hiểu đại ý. Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

 - Ngươi không hiểu chỗ nào?

 - Dạ, đệ tử có thắc mắc về bài kệ:

Chư hành vô thường
Thị sanh diệc pháp 
Sanh diệt diệc dĩ
Tịch diệt vi lạc.

(Các hành là vô thường
Đó là pháp sanh diệt
Sanh diệt đã diệt rồi
Thì tịch diệt là vui).

Sư hỏi:

 - Vì sao thắc mắc?

 - Bạch, hết thảy chúng sanh lẽ ra có hai thân là nhục thân và Pháp thân. Thân vật chất thì vô thường, có sống có chết. Thân tinh thần (Pháp thân) thì thường còn, nhưng vô tri vô giác. Kinh nói sanh diệt hết thì tịch diệt là vui, con không hiểu thân nào tịch diệt, thân nào cảm thọ cái vui ấy. Nếu là thân vật chất, thì khi nó diệt, bốn đại rã rời, toàn là khổ, không thể bảo là vui được. Nếu Pháp thân tịch diệt, thì cũng như cỏ cây ngói đá, ai cảm thọ cái vui? Lại pháp tánhbản thể của sanh diệt, năm uẩn là dụng của sanh diệt, (nghĩa là) đồng một thể mà có năm dụng, quá trình sanh diệt thường tiếp diễn, từ thể khởi ra dụng gọi là sanh, dụng thâu về thể gọi là diệt. Nếu chấp nhậntái sanh, thì loài hữu sanh không bao giờ đoạn diệt (chỉ thay đổi thân này qua thân khác). Nếu không chấp nhậntái sanh, thì cac loài hữu tình trở về trạng thái tịch diệt, không khác vật vô tri vô giác. Như vậy thì tất cả các pháp đều bị Niết bàn (tịch diệt) án ngữ cả rồi, sanh còn không được làm sao có lạc?

 Sư dạy:

 - Ông là con dòng họ Thích, sao lại đem tà kiến chấp đoạn, chấp thường của ngoại đạo mà luận pháp Tối thượng thừa? Cứ như lời ông nói, thì ngoài sắc thân riêng có Pháp thân, do đó bỏ sanh diệt cầu tịch diệt. Ông lại suy luận rằng Niết bàn đã là thường lạc thì phải có thân để thọ dụng cái lạc ấy. Chính vì thế mà sanh ra ôm giữ sanh tử, tham đắm thế lạc. Ông nên biết Phật vì những người mê lầm này – những kẻ ngộ nhận sự phối hợp năm uẩn là cái ta, còn những vật khác là ngoài ta, do đó ưa sống ghét chết, mãi mãi phiêu bạt một cách oan uổng trong vòng luân hồi mà không biết chỉ là mộng huyển giả dối, đảo lại xem Niết bànthường lạc là khổ, suốt ngày chỉ theo đuổi cái vui thế tục – Phật vì thương xót những người này mới chỉ ra cái lạc chơn thật của Niết bàn. Niết bàn chơn lạc ấy trong một sát na không có hiện tượng sanh, cũng không có hiện tượng diệt, cũng không có hiện tượng sanh diệt nào để chấm dứt. Ấy gọi là sự hiện khởi trước mắt của tịch diệt. Nhưng ngay lúc hiện khởi ấy cũng không có cái suy lường về hiện khởi, nên gọi là thường lạc. Lạc ấy không có người cảm thọ, cũng không có người không cảm thọ, đâu có cái chuyện một thể năm dụng (như ông nói), huống nữa lại còn bảo niết bàn án ngữ hết mọi sự, khiến cho mọi sự vĩnh viễn không sanh được. Ấy là chê Phật bài bác pháp đó. Hãy nghe kệ của ta:

Vô thượng đại Niết bàn
Viên minh thường tịch chiếu
Phàm ngu cho là chết
Ngoại đạo gọi dứt đoạn
Người cầu pháp Nhị thừa
Lại bảo là vô tác
Đều thuộc về chấp trước
Căn bản của (62) tà kiến
Chỉ là tên giả đặt
Đâu có nghĩa chơn thật
Chỉ có người siêu việt
Liễu tri pháp Niết bàn
Nên không lấy không bỏ
Vì biết rằng năm uẩn
Và ngã ở trong đó
Cùng những sắc tượng ngoài
Và tất cả âm thanh
Đều như mộng như huyễn
Không phân biệt Thánh phàm
Không cho rằng mình hiểu (Niết bàn)
Trừ cả hai biên chấp (có, không)
Bỏ luôn quá, hiện, vị
Thường sử dụng giác quan
Không khởi tưởng (sử dụng)
Phân biệt tất cả pháp
Không khởi tưởng “phân biệt”
Lửa cháy thấu đáy biển
Vào thời gian kiếp hoại
Gió mạnh núi va nhau
Niết bàn chơn lạc
Vẫn không hề thay đổi
Ta nay chỉ gượng nói
Để ông bỏ tà kiến
Ông đừng chấp lời ta
Họa may hiểu vài phần.

Chí Đạo nghe kệ đại ngộ, vui mừng lễ tạ mà lui.

Thiền Sư Hành Tư, họ Lưu, sanh ở An Thành, người Cát Châu, nghe tiếng Tổ Tào Khê, đến tham lễ, hỏi:

 - Phải làm gì để khỏi rơi vào giai cấp?

 Tổ hỏi:

 - Ông thường làm gì?

Đáp:

- Thánh đế cũng không làm.

- Vậy ông thuộc giai cấp nào?

- Thánh đế còn không làm, thì còn có giai cấp nào.

Tổ nhận là bậc Pháp khí, cho làm thủ chúng. Một hôm Tổ bảo Hành Tư:

- Ông nên đi du hóa một phương, chớ để đứt mất giống Phật.

Hành Tư sau khi đắc pháp, trở về Cát Châu, núi Thanh Nguyên mà hoằng dương, sau khi mất Ngài được phong thụy là Hoằng Tế Thiền Sư.

Thiền Sư Hoài Nhượng, người họ Đỗ, ở Kim Châu, lúc đầu yết kiến An Quốc Sư ở Cao Sơn. An bảo đến Tào Khê tham bái Lục Tổ.

 Tổ hỏi:

 - Từ đâu đến?

 - Cao Sơn.

 - Vật gì đến? Vì sao đến?

 - Nói rằng nó giống một vật thì không đúng.

 - Vậy có thể tu chứng không?

 - Tu chứng thì không phải không, nhưng nhiễm ô lại không thật có.

 - Chính cái không nhiễm ô ấy, chư Phật đều hộ niệm! Ông đã được vậy, thì tôi cũng vậy.

Nhượng hoắc nhiên đại ngộ, hầu cận bên Tổ suốt mười lăm năm, càng ngày càng thâm nhập Phật lý. Về sau, sư đến Nam Nhạc hoằng dương thiền tông, sau khi mất được phong hiệu là Đại Huệ Thiền Sư.

 Vĩnh Gia Huyền Giác thiền sư, người họ Tải, đất Ôn Châu, thuở nhỏ học Kinh Luận, tinh thông pháp môn chỉ quán của Thiên Thai tông, sau nhờ xem Kinh Duy Ma mà phát minh được tâm địa, gặp đệ tử của Tổ là Huyền Sách cùng nhau đàm luận nghĩa lý. Sách thấy lời nói của Sư khế hợp chư Tổ, bèn hỏi:

 - Nhân giả đắc pháp với ai?

 - Khi tôi nghe các Kinh luận Đại thừa thì đều có thầy truyền dạy, nhưng sau được đọc Kinh Duy Ma, ngộ tâm tông của Phật, thì chưa có người chứng minh cho tôi.

 Sách bảo:

 - Trước Phật Oai Âm Vương thì được, sau Phật Oai Âm Vươngtự ngộ, không có thầy chứng minh, đều là thiên nhiên ngoại đạo.

 - Vậy xin nhân giả chứng minh cho tôi.

 Sách bảo:

 - Lời tôi nhẹ lắm. Tào KhêLục Tổ Đại sư, bốn phương đều tụ hội thọ pháp với Ngài. Nếu đi thì tôi đi với.

 Giác bèn cùng đi với Sách tới tham lễ Tổ. Đến nơi, Giác đi quanh ba vòng rồi chống tích trượng đứng. Tổ hỏi:

 - Hễ làm Sa môn thì phải đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Đại đức từ đâu tới mà ngạo mạn như vậy?

 Giác nói:

 - Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng.

 Sư hỏi:

 - Sao không ngay thể tánhtrực nhận cái không sanh, để liễu đạt cái không chóng?

 - Thể vốn không sanh, liễu vốn không chóng.

 - Đúng đấy, đúng đấy.

 Giác mới đủ oai nghi đảnh lễ Tổ rồi cáo từ.

 Tổ hỏi:

 - Về chóng quá vậy?

 - Vốn tự không động, há lại có mau chóng hay sao?

 Tổ hỏi:

 - Ai biết không động?

 - Ấy là nhân giả tự sanh phân biệt.

 Tổ khen:

 - Ông thật đã đạt cái ý vô sanh.

 - Vô sanh lại có ý sao?

 Tổ hỏi:

 - Nếu không ý thì ai phân biệt?

 - Phân biệt cũng không phải là ý.

 Tổ bảo:

 - Lành thay! Hãy lưu lại một đêm đã.

 Nhân đấy người đương thời gọi là “một đêm giác ngộ”.

 Về sau Giác làm “bài ca chứng đạo” thịnh hànhthế gian. Khi mất, ngài được ban thụy là Vô Tướng Đại Sư.

 Thiền Sư Trí Hoàng, lúc đầu tham học ngũ Tổ, tự cho đã được chánh định, về ở trong am ngồi suốt hai mươi năm. Đệ tử của Tổ là Huyền Sách đi du phương đến Hà Sóc, nghe danh Hoàng, đến am hỏi:

 - Ông ở đây làm cái gì?

 - Nhập định.

 Sách bảo:

 - Ông nói nhập định, vậy là hữu tâm mà nhập hay vô tâm mà nhập? Nếu vô tâm, thì hết thảy loài vô tình như cỏ cây ngói đá, đáng lẽ cũng nên gọi là đã đạt định, còn nếu hữu tâm mà nhập, thì tất cả các loài hữu tìnhtâm thức cũng đáng gọi là đắc định.

 Hoàng nói:

 - Trong khi tôi nhập định, thì không thấy cái tâm hữu vô ấy.

 Sách nói:

 - Không thấy có tâm hữu vô, thì là thường định rồi, còn có xuất nhập gì nữa. Nếu có xuất nhập thì không phải đại định.

 Hoàng không đáp được. Một lúc, Hoàng hỏi:

 - Nhân giả kế thừa pháp của ai vậy?

 - Thầy tôi là Lục TổTào Khê

 Hoàng nói:

 - Lục Tổ lấy gì làm thiền định?

 Sách đáp:

 - Lời dạy của thầy tôi là “Diệu trạm viên tịch”, thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần không thật có, không xuất không nhập, không định không loạn. Tánh của thiền là vô trú, nên không trú nơi sự yên lặng của thiền. Tánh của thiền là vô sanh, nên không sanh ý tưởng về thiền. Tâm như hư không, nhưng cũng không có tư tưởng về hư không.

 Hoàng nghe xong, đến bái yết Tổ, Tổ hỏi:

 - Nhân giả từ đâu đến?

 Hoàng trần thuật mọi sự:

 - Sách nói đúng đó.

 Tổ thương xót người đã lặn lội từ xa đến bèn khai thị như sau:

 - Ông hãy để tâm như hư không, mà chớ nắm giữ cái ý tưởng về hư không. Để nó vận hành tự nhiên. Dù khi làm việc hay nghỉ ngơi, hãy để tâm an trú trong không. Đừng phân biệt Thánh phàm chủ khách. Tâm thể và vạn sự luôn luôn ở trong trạng thái như, thế gọi là thường định .[6]

 Trí Hoàng nhân đấy đại ngộ, những gì tâm sở đắc trong hai mươi năm qua không còn tác dụng nữa. Đêm ấy, dân chúng Hà Bắc nghe trên không có tiếng nói: “Thiền sư Trí Hoàng hôm nay đắc đạo”.

 Về sau Hoàng từ biệt Tổ, trở về Hà Bắc khai hóa bốn chúng đệ tử.

 Thần Hội đồng tử mười ba tuổi, từ Ngọc Tuyền đến tham lễ Tổ dạy:

 - Bạn từ xa đến thật là khó nhọc, vậy có đem gốc đến được đó không? Nếu có gốc tất biết được chủ. Hãy nói thử coi.

 Hội đáp:

 - Vô trú là gốc, thấy là chủ.

 Tổ dạy:

- Sa di này ăn nói sao lộn xộn!

 Hội hỏi:

 - Hòa thượng tọa thiền, thấy hay không?

 Tổ đánh cho ba gậy, hỏi:

 - Ta đánh, ngươi đau không?

 Hội bạch:

 - Cũng đau cũng không đau.

 Tổ hỏi:

 - Ta cũng thấy cũng không thấy.

 Thần Hội hỏi:

 - Cũng thấy cũng không thấy nghĩa là sao?

 Tổ đáp:

 - Ta thấy là thường thấy lỗi lầm của tự tâm, không thấy là không thấy phải trái tốt xấu của người khác. Cho nên nói cũng thấy cũng không thấy. Còn ngươi nói cũng đau cũng không đau là sao? Ngươi, nếu không đau thì khác gì gỗ đá, nếu đau thì cũng như phàm phu, tất sẽ khởi tâm sân hận. Ngươi nói thấy không thấy ấy là nhị biên, đau không đau là sanh diệt. Ngươi đã không thấy tự tánh lại dám đùa người.

 Thần Hội lại sám hối lỗi lầm. Tổ dạy:

 - Ngươi nếu tâm mê không thấy, thì phải hổi Thiện tri thức để tìm đường. Nếu tâm ngộ, thì đã thấy tự tánh, theo pháp mà tu hành. Đã mê không thấy tự tâm mà còn tới hỏi ta thấy với không thấy. Nếu ta thấy thì ta tự biết, đâu đợi đến cái mê lầm của ngươi. Nếu ngươi tự thấy được thì không cần đợi đến cái mê của ta. Sao không tự biết tự thấy, lại đi hỏi ta thấy với không thấy.

 Thần Hội lại lễ thêm một trăm lạy, cầu xin sám hối, từ đấy siêng năng hầu hạ Tổ không rời. Một hôm Tổ bảo chúng:

 - Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên gọi, không danh tự, không lưng, không mặt, các ngươi có biết không?

 Thần Hội bước ra nói:

 - Đó là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của con đây.

 Tổ dạy:

 - Ta đã bảo nó không tên gọi, không danh tự sao ngươi còn gọi là bản nguyên Phật tánh. Như vậy là ngươi chỉ lấy cỏ che đầu, thành môn đồ của bọn trí giải.

 Sau khi Tổ nhập diệt. Thần Hội vào đất Kinh Lạc hoằng dương pháp Đốn giáo, trước tác bộ Hiển Tôngthịnh hànhthế gian. Ngài có danh hiệu là Hà Trạch Thiền Sư.

 Một vị Tăng hỏi:

 - Tông chỉ của Tổ Hoàng Mai ai được?

 Sư đáp:

 - Người nào hiểu Phật pháp thì được.

 Tăng hỏi:

 - Hòa thượng được không?

 - Tôi không hiểu Phật pháp.

 Một ngày nọ Sư muốn giặt cái y đã được truyền thọ, nhưng không còn suối tốt. Ngài đi ra phía sau chùa khoảng năm trăm dặm thì thấy núi non sầm uất, bàng bạc anh linh tú khí. Sư ấn tích trượng xuống đất, liền có nước vọt lên tụ lại thành một cái ao. Sư bèn quỳ gối mà giặt y trên phiến đá.

Có vị tăng tên Phương Biện, người đất Thục đến yết kiến. Sư hỏi:

 - Thượng nhân sở trường nghề gì? 

 Vị Tăng đáp:

 - Đắp tượng.

 Sư nghiêm mặt bảo:

 - Ngài hãy đắp thử coi.

 Phương Biện hoang mang. Vài ngày sau ông đắp thành một cái tượng bảy tấc rất tinh xảo. Sư cười nói:

 - Ông thật am tường tính chất của điêu khắc, nhưng lại không am tường Phật tánh.

 Sư bèn xoa đầu thọ ký pho tượng, để làm ruộng phước vĩnh viễn cho loài người, rồi lấy y đền công cho Phương Biện. Biện chia cái y ra làm ba mảnh, một đắp cho tượng, một giữ cho mình, còn một gói lại chôn xuống đất phát lời nguyện tương lai sẽ được lại y này lúc tái sanh, trú trì đất ấy để trùng tu ngôi Tam Bảo. Đến đời Tống Gia Hữu năm thứ tám, có vị Tăng Duy Tiên trùng tu chùa, khi đào đất được mảnh y như mới. Pho tượng hiện ở chùa Cao Tuyền, nổi tiếng rất linh ứng.

 Có vị Tăng đọc bài kệ của thiền sư Ngọa Luân:

Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng
Năng đoạn bách tư tưởng
Đối cảnh tâm bất khởi
Bồ đề nhật nhật trưởng.

(Ngọa Luân có nghề hay
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm không sanh
Bồ đề ngày càng lớn).

 Sư nghe bài kệ dạy rằng:

 - Bài kệ ấy chưa rõ thấu tâm địa. Theo đó mà làm là tự thêm dây trói buộc đó.

 Nhân đấy Sư đọc kệ:

Huệ Năng một kỹ lưỡng
Bất đoạn bách tư tưởng
Kiến cảnh tâm sát khởi
Bồ đề tác ma trưởng.

(Huệ Năng không nghề hay
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm thường khởi
Bồ đề lớn sao được).

[3] (đánh dấu thuyền để tìm gươm. DG)
[4] Kiên phi công: thấy mà không dụng công phân biệt, thấy bằng trực giác “đệ nhất phong đầu”.
[5] Tức đối các cảnh biến thiên mà tâm bất động
[6] Theo bản Anh dịch của ông Mou Lam. Hán không có đoạn này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15516)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13712)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13115)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13541)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12434)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12051)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12865)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12941)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13163)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21299)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143534)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15636)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81221)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19542)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20145)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19202)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15088)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 12974)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13104)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48915)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14731)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18566)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16369)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19350)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27983)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22144)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23276)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64735)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33171)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40126)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27292)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74842)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36087)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48945)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30991)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33887)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58777)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46233)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43779)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43176)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45865)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47982)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34598)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33419)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43872)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52874)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40397)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43427)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31420)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28660)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31840)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28766)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33310)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29089)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60952)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39691)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29633)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37310)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26811)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42598)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant