Tình cờngẫu nhiên mà đọc xong bản dịch kinh Khemaka của Cư sĩ Nguyên Giác đăng trong Thư Viện Hoa Sen, mới biết đây chính là 'Ts'ai-mo ching' mà hôm rày Tuệ Hạnh mới vừa kiếm ra. Trong tiểu sử của Đàm Ma Da Xá (Dhammayasas), có đoạn ghi ngài truyền 5 giới cư sĩ cho Trương Phổ Minh con gái của thứ sử Giao Châu Trương Mục (kh. tk 5), theo yêu cầu của bà mà dịch 'Ts'ai-mo ching' (Sai-Ma kinh) từ Pàli sang Hán; sau đó lại truyền giớitỳ kheo ni cho bà. Theo đó thì (Trương) Phổ Minh là vị ni đầu tiên có tiểu sửtrong lịch sửPhật Giáo Việt Nam, chứ không phải đợi đến ni sưDiệu Nhân (tk. 12) như Thiền Uyển Tập Anh ghi mà ai nấy cũng lập đi lập lại. Tuệ Hạnh mới vừa tìm ra tên kinh Ts'ai-mo là Sai-Ma kinh 4-5 hôm nay, đọc xong cũng liền nghĩ ngay đến tư tưởng "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" như Cư sĩ Nguyên Giác đã ghi, và đã có ý định viết một bài ngắn về liên quan giữa tư tưởng 2 hệ NamBắc tông này. Nay Cư sĩ Nguyên Giác đã viết rồi thì thôi vậy. Như Lý Bạch muốn đề thơ trên lầu Hoàng Hạc mà "Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu" vậy.
Thích Nữ Tuệ Hạnh. 24-10-2015 KINH TẠP A-HÀM
Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La. Việt dịch: Thích Đức Thắng. Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ Tạp A Hàm q. 5, kinh 103. Sai-Ma
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụcụ thể sự dại dộtmê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệmtự nhiên, giải thoáttự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấntrực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến.
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
Đây là thông điệpcuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịchniết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tửxuất gia của Người.
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳmạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạnnão loạn khiến cho chúng sinh không an"..
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởngtà vạy lừa gạt.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.