Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 2: Thương Chủ

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4799)
Phẩm 2: Thương Chủ

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Đại Bi 2

 

Phẩm 2

THƯƠNG CHỦ

 

Lúc bấy giờ, con của ma vương tên là Thương Chủ, vốn đã có lòng kính tin thâm sâu đối với đức Phật từ lâu, nay nghe Phật sắp nhập niết bàn thì rất đau buồn, vội vàng đến chỗ Phật ngự. Sau khi đảnh lễ đức Phật, ông lui xuống đứng một bên, bạch rằng:

“Cúi xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, vì đem lại an lạc cho chúng sinh, vì cứu hộ thế gian, làm lợi ích cho khắp trời, người, mà trụ thế lâu một kiếp, không vội nhập niết-bàn! Con cũng vì thương xót trời, người, mà thỉnh cầu như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn đừng để cho chúng sinh sớm trở thành những kẻ mù tối, không ai dạy dỗ, không ai hướng dẫn, không ai cứu hộ, không có chỗ nương tựa, không có nơi hướng về!”

Đức Phật dạy:

“Này Thương Chủ! Trước đây, thân phụ của ông là Ba Tuần, đã thỉnh cầu Như Lai nhập niết-bàn; và Như Lai đã tùy thuận theo ý của thân phụ ông mà hứa nhập niết bàn. Bởi vậy, hôm nay đã đến lúc Như Lai thực hiện lời hứa ấy mà nhập niết-bàn.”

Thương Chủ lại thưa:

“Bạch đức Thế Tôn! Ông ấy là ma vương Ba Tuần, không phải là thân phụ của con, cũng không phải là bạn tốt của con! Ông ấy thường bảo con giết hại, cho nên, đó là ác tri thức, là oan gia của con. Ông ấy không muốn cho con được an vui, hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn con làm các việc cực ác, hủy báng trời người để gây oán kết thù; không muốn làm lợi ích cho thế gian, mà chỉ muốn làm việc hủy diệt. Ông ấy luôn luôn muốn thổi tắt cây đuốc lớn, ngọn đèn sáng của bậc Đại Trí. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong chốn trời, người, có xuất hiện một kẻ độc ác cùng cực.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có kẻ không phát tâm làm lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho nhiều chúng sinh.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong thế gian có kẻ không muốn làm lợi ích cho trời, người, a-tu-la, sa-môn, bà-la-môn, vân vân; cũng không muốn cho mọi người được hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn tất cả đều phải chịu khổ não.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Con từng được nghe đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người: một là đúng pháp, hai là không đúng pháp. Con nghĩ rằng, lời hứa nhập niết-bàn của đức Thế Tôn đối với Ba Tuần là không đúng pháp; cúi xin đức Thế Tôn đừng giữ lời hứa đó. Xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh mà bỏ lời hứa đó, trụ thế một kiếp để đem lại lợi íchan ổn cho trời người và tất cả chúng sinh. Xin đức Thế Tôn đừng nhập niết-bàn quá sớm!”

Đức Phật bảo Thương Chủ:

“Lành thay! Lành thay! Nếu làm lợi ích cho chúng sinh thì đúng là phải như thế. Này Thương Chủ! Nếu có người dâng hiến phẩm vật lên đức vua, hoặc có người hiến tặng phẩm vật cho vị vương tử hay các vị đại thần, hoặc có người ra sức phòng vệ quốc gia, thành ấp, xóm làng, thì những người này sẽ được vua ban cho chức tước, phước lộc; đến cả con cháu, họ hàng của họ cũng được hưởng ân sủng của vua. Này Thương Chủ! Hôm nay ông đã phát lòng tin trong sạch đối với Như Lai, bậc Pháp Vương vô thượng. Với lòng tin trong sạch đó, ông đã gieo trồng căn lành nơi đất Phật, và ông sẽ hưởng được phước báo. Bây giờ Như Lai nói rõ cho ông biết. Này Thương Chủ! Do ông có căn lành phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ông sẽ là một vị Phật Bích-chi, có danh hiệu là Bi Mẫn. Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, và khi chánh pháp đã diệt rồi, thì ma Ba Tuần rất vui mừng. Do tâm vui mừng đó mà Ba Tuần sẽ rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì, chịu muôn vàn đau khổ. Vì sao vậy? Vì ma Ba Tuần đã sinh tâm vui mừng khi thấy ngọn đèn chánh pháp đã ẩn mất! Này Thương Chủ! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có người khởi tâm làm ác để tự hại mình, tự hủy hoại mình.], thì nên biết rằng, người đó chính là ma Ba Tuần vậy. Vì sao thế? Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai diệt độ, suốt trong thời kì chánh pháp còn trụ thế, Ba Tuần luôn ở tại cung ma; đến khi chánh pháp diệt mất, Ba Tuần vô cùng đắc ý, vui mừng hớn hở, thì liền trong khoảnh khắc, bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì! Này Thương Chủ! Ví như có người trèo lên một cây đầy hoa trái, hái lấy những trái ngon nhất để dùng; hái xong lại chặt đứt cái cành mà mình đang ngồi. Này Thương Chủ! Ý ông thế nào? Người kia lúc ấy có còn ngồi được trên cành cây đã bị chặt đứt nữa không? Lại nữa, người kia đang ngồi trên cây ăn trái một cách an ổn thích thú, bỗng dưng chặt đứt đi cái cành mà mình đang ngồi, thì có thể nói ông ta là người có trí chăng?”

Thương Chủ thưa:

“Dạ thưa không, bạch đức Thế Tôn!”

Đức Phật dạy tiếp:

“Ma Ba Tuần cũng vậy, luôn luôn mong cho Như Lai nhập niết-bàn, luôn luôn muốn hủy diệt chánh pháp do Như Lai nói. Này Thương Chủ! Cho đến bao giờ chánh pháp của Như Lai còn trụ thế, thì ma Ba Tuần vẫn ở trong cung ma; đến khi chánh pháp của Như Lai diệt mất, thì Ba Tuần lấy làm đắc ý, vui mừng hớn hở, cho nên tức khắc bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì. Này Thương Chủ! Trong thí dụ trên, người đang ngồi trên cây lại chặt đứt cái cành ông ta đang ngồi, thế là tự hại mình; ma Ba Tuần cũng vậy, vì muốn hại người khác mà thành ra tự hại mình. Này Thương Chủ! Sau này, khi ma Ba Tuần đã đọa vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ cùng cực, nếu lúc đó ông ấy khởi tâm nghĩ nhớ tới Như Lai, mà tự nói rằng: [Đức Như Lai là bậc chánh biến tri, bậc nói lời chân thật, nói lời không sai quấy; là bậc thân hành động theo luật nghi, miệng nói năng theo luật nghi, ý suy nghĩ theo luật nghi. Ngài là bậc thân làm việc lành, miệng nói việc lành, ý nghĩ việc lành; cho nên có được phước báo an vui, xứng ý; còn ta là kẻ thân làm việc ác, miệng nói việc ác, ý nghĩ việc ác, cho nên phải chịu quả báo đau khổ, không xứng ý. Ngày xưa ta đối với Ngài, thân hành động chỉ tương ứng với việc ác, miệng nói năng chỉ tương ứng với việc ác, ý suy nghĩ chỉ tương ứng với việc ác; do nghiệp báo đó mà nay phải đọa địa ngục, phải chịu đau khổ cùng cực như thế này!] Bấy giờ ma Ba Tuần, do nhớ nghĩ đến những điều Như Lai đã nói mà phát khởi lòng tin trong sạch. Do đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai, mà ngay lúc đó, ma Ba Tuần mạng chung; và từ địa ngục ông ấy được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Vì sao vậy? Này Thương Chủ! Nếu người có ác tâm, làm điều tội lỗi đối với Như Lai, khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục; nếu người đem từ tâm cúng dường Như Lai, không gây ra lỗi lầm gì, khi mạng chung sẽ sinh vào những nơi tốt đẹp ở các cõi trời, người. Người ấy do có căn lành mà sẽ được gặp chư Phật; gặp được chư Phật rồi, người ấy lại tiếp tục gieo trồng căn lành; cứ tuần tự như thế cho đến khi đạt được quả tịch diệt niết-bàn. Này Thương Chủ! Ông đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai; và do căn lành đó mà khi đức Phật Di Lặc ra đời, ông sẽ được gặp Ngài. Được gặp Ngài rồi, ông sẽ có đầy đủ khả năng giáo hóa, khiến cho những chúng sinh còn mê ngủ, buông lung được tỉnh ngộ. Ông sẽ bảo họ rằng: [Quí vị nên dõng mãnh làm các việc lành. Gặp thời đức Phật ra đời là việc rất khó, như hoa ưu đàm, phải trải qua thời gian lâu dài mới nở một lần! Lại nữa, thân người rất khó được, tám nạn rất khó tránh. Được gặp Phật ra đời ở nơi trung châu đại quốc lại càng khó khăn vô cùng. Vì vậy cho nên quí vị hãy cẩn thận, chớ nên buông lung; hãy tinh tấn tu hành, về sau khỏi hối hận!] Này Thương Chủ! Ông bẩm thọ giáo pháp của đức Phật Di Lặc; ông nhiếp lãnh quốc độnhân dân của đức Pháp Vương vô thượng ấy, và thường đem tâm từ, tâm không độc ác, tâm không oán cừu, tâm thương xót, tâm vui vẻ, tâm che chở, để hộ trì quốc độdưỡng dục nhân dân ấy. Do căn lành này mà ông sẽ được bổ xứ ở cung ma, trở thành một vị chúa tể giàu sang, tự tại. Này Thương Chủ! Ông nhờ có căn lành mà thọ hưởng được phước báo lớn lao ở chốn trời người; trải qua tám mươi kiếp như thế, cuối cùng ông sẽ chứng quả Phật Bích-chi, danh hiệu là Bi Mẫn. Vì sao ông được như vậy? Này Thương Chủ! Vì khi vừa nghe tin Như Lai sắp nhập niết- bàn, ông liền phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, vì khởi tâm thương xót chúng sinh, vì mong muốn cho chúng sinh được an vui, ông đã thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu mà khoan nhập niết-bàn; rồi ở trong thời kì pháp vận của đức Phật Di Lặc, ông lại thương xót các chúng sinh còn mê lầm, buông lung, mà giáo hóa, thức tỉnh họ, khiến họ quay về sống với pháp lành. Do nhân duyên đó mà ông được thọ kí làm Phật Bích-chi. Đó là quả báo thiện lành, do căn lành ông có được từ việc thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu, khoan nhập niết-bàn. Ông hãy vui mừng ưng ý!”

Lúc bấy giờ Thương Chủ lại bạch lên đức Phật:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu đức Thế Tôn không nhận lời thỉnh cầu của con, mà vẫn quyết định nhập niết-bàn, thì con nguyện từ nay cho đến ngày nào chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người. Vì sao vậy? Vì đức Thế Tôn, ánh sáng quí báu của chúng sinh, sắp xa lìa con, không còn hội họp, con hoàn toàn không còn trông thấy; vậy thì con đâu còn có gì thích thú để vui cười! Ánh sáng của ngọn đèn trí tuệ, cây đuốc trí tuệ lớn nhất, sắp ẩn mất rồi, thì con đâu còn gì nữa để vui mừng! Mặt trời đại trí với vô lượng tia sáng, có năng lực diệt trừ vô minh tối tăm, sắp tắt mất rồi, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế mà con sắp phải xa lìa rồi! Đức Thế Tôn là bậc đo lường được căn tánh chúng sinh, không bỏ sót chúng sinh, cho chúng sinh ánh sáng, không khiến cho chúng sinh gây tội lỗi, không làm cho chúng sinh ngu si; là bậc tối thượng của chúng sinh, không có chúng sinh nào tương tợ, không có chúng sinh nào sánh bằng; là bậc cứu độ tất cả chúng sinh, được chúng sinh cúng dường; là bậc điều phục chúng sinh, bậc thương xót chúng sinh, bậc nói lời chân thật, nói đúng thời, nói trước sau như một; là bậc an trú trong tâm đại từ bi, tâm không chướng ngại đối với chúng sinh, tâm luôn bình đẳng đối với chúng sinh; là bậc không hí luận, không chấp trước vào ngã và ngã sở hữu, không cất chứa, không ỷ lại, không quanh co, không hiểm hóc, không cáu bẩn; là bậc cứu giúp chúng sinh, hướng dẫn chúng sinh, hóa độ chúng sinh, phòng hộ cho chúng sinh, cởi trói cho chúng sinh, dưỡng dục chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh, giúp chúng sinh nhớ nghĩ tới căn lành của mình, khiến cho chúng sinh tỉnh ngộ; là bậc nhổ mũi tên độc, bậc y vương trị tâm bệnh, bậc cho thuốc tốt; là bậc rốt ráo vượt thoát biển khổ, bậc đạo sư thuyết pháp; là vị thương chủ sắp khởi hành, vị hướng đạo chỉ cho chỗ nước cạn, người giữ tay lái, người cầm đuốc, người làm ra ánh sáng và chiếu ra ánh sáng rực rỡ; là bậc dẫn đường đưa người đến quốc độ an ổn, xa lìa nơi hoang sơ nguy hiểm; là bậc xa lìa trọn vẹn tham sân si, xa lìa kiêu mạn, xa lìa hết mọi kết sử, mọi phiền não; là bậc điều ngự trượng phu vô thượng, bậc có đầy đủ mười lực, bốn điều không sợ sệt, mười tám pháp không cùng chung; là bậc có đầy đủ vô lượng pháp tạng, bậc thí chủ tối thắng luôn làm cho chúng sinh vui vẻ, bậc luôn an trú trong cảnh giới đại định, bậc trí tuệ vô luợng, trí tuệ không chướng ngại, luôn an trú trong cảnh giới đại tuệ; là bậc đã vượt qua khỏi vũng bùn lầy, đã đến bờ bên kia, an trúbờ bên kia; là bậc an trú ở nơi không còn sợ sệt, dứt trừ nỗi sợ sệt cho tất cả chúng sinh, an ủi tất cả chúng sinh; là chỗ nuơng tựa vững vàng, bền chắc cho chúng sinh như thế, mà sau nửa đêm hôm nay con sẽ phải biệt li, không còn thấy trở lại được nữa! Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ không còn được nghe tiếng rống sư tử của đức Thế Tôn ở trước đại chúng nữa, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Bạch đức Thế Tôn! Như có những người được hưởng phước lộc của vua, sau khi vua mạng chung rồi, lòng rất buồn khổ. Họ biết ơn vua, nhớ nghĩ đến ơn vua, giữ lòng trung hiếu đối với vua; hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, hoặc nửa tháng cho đến một tháng, họ nhớ tưởng vua mà rơi nước mắt. Bạch đức Thế Tôn! Con cũng như vậy. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, trong suốt thời gian chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15517)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13716)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13116)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13541)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12435)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12052)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12866)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12942)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13166)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21301)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143553)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15637)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81227)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19546)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20146)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19204)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15092)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 12975)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13104)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48921)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14734)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18566)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16369)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19351)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27988)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22145)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23277)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64735)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33174)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40129)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27293)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74844)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36088)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48948)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30992)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33889)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58784)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46233)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43784)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43176)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45868)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47990)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34598)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33419)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43874)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52875)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40397)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43431)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31422)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28661)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31842)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28767)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33311)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29089)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60952)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39691)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29633)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37310)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26811)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42600)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant