Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Quán Sở Duyên Duyên

24 Tháng Tư 201700:22(Xem: 11295)
Luận Quán Sở Duyên Duyên

LUẬN QUÁN SỞ DUYÊN DUYÊN

 

Bồ-tát Trần Na tạo luận.[1]

Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch.

Việt dịch: Quảng Minh

 

            [888b07] Có những người chủ trương lấy ngoại sắc làm sở duyên và duyên cho năm thức: nhãn thức, v.v…; họ chấp rằng cực vi là có thật thể, vì nó dẫn sinh ra sự nhận thức; hay họ chấp rằng cực vi hòa hợp, vì khi nhận thức sinh khởimang theo hình tướng của cực vi hòa hợp. Cả hai chủ trương ấy đều phi lý. Vì sao?

 

            Cực vi đối năm thức

            Làm duyên, chẳng sở duyên

            Trong thức không tướng chúng

            Giống như nhãn căn, v.v…

 

            [888b12] Sở duyên là cái mà thức năng duyên mang theo hành tướng[2] của nó khi sinh khởi, và duyên là cái có tự thể thật hữu để thức năng duyên dựa vào đó mà sinh khởi. Nếu cực vi của sắc các thứ mà có tự thể thật hữu và có khả năng sinh ra nhận thức của năm thức, thì chúng chỉ có nghĩa là duyên (: điều kiện), chứ không phải là sở duyên (: đối tượng của thức). Như nhãn căn, v.v…, đối với nhãn thức, v.v…, chúng không có đặc tính của nhận thức. Như vậy, cực vi đối với năm thức: nhãn thức, v.v…, nó không có cái nghĩa sở duyên.

 

            Hòa hợp đối năm thức

            Làm sở duyên, chẳng duyên

Thể kia không thật hữu

Như mặt trăng thứ hai.

 

[888b18]  Đối với nhãn thức thì sắc có tính chất hòa hợp[3]. Giả sử cái hòa hợp tuy có thể là sở duyên của năm thức nhưng không phải là duyên, vì tự thể của nó không thật hữu, cũng như con mắt rối loạn thấy mặt trăng thứ hai[4]. Mặt trăng ấy không có thật thể nên không thể sinh ra cái thấy chính xác. Như vậy, đối với năm thức, cái hòa hợp của sắc, v.v… không thể làm duyên.

Đối với sở duyên và duyên, cả hai chủ trương trên đều thiếu sót một phần, cho nên cả hai không đúng.

Có người chấp rằng sắc, thanh, v.v…, mỗi trần cảnh có nhiều hình thái, mà một phần nào của những hình thái ấy là cảnh hiện lượng. Các cực vi hỗ trợ nhau, mỗi cực vi có chung tính chất là hòa tập. Tính chất này là thật hữu, cho nên mỗi cực vi có khả năng phát sinh ra sự nhận thứctính chất tương tự nó. Do đó cực vi làm sở duyên và duyên cho năm thức. Điều này cũng phi lý. Tại sao?

 

Hòa tập như cứng, v.v…

Trong năm thức: nhãn, v.v…

Làm duyên, chẳng sở duyên

Tính cực vi vẫn vậy.

 

[888b27]  Những tính chất như cứng, ướt, ấm, động tuy là thật có, nhưng đối với năm thức chúng chỉ có thể là duyên, chứ không phải là sở duyên, bởi vì trên nhận thức của năm thức không có những tính chất ấy. Tính chất hòa tập của cực vi của sắc các thứ, lý cũng phải vậy. Cả hai chấp trên[5] làm thành tính chất của cực vi. Nếu chủ trương năm thức có thể duyên được với cực vi, thì tính chất hòa tập của cực vi lại có lỗi riêng.

 

Tri giác về bình, chậu

Kia chấp cũng không khác

Chẳng hình khác biết khác

Hình khác không thật có.

 

[888c04]  Các đồ vật như bình, chậu, … lớn hay nhỏ khác nhau, nhưng những cực vi tác thành chúng dù nhiều hay ít thì vẫn giống nhau về tính chất; vậy sự tri giác lấy đồ vật làm đối tượng hẳn phải không khác nhau. Nếu cho rằng hình tướng của đồ vật kia khác nhau, nên sự tri giác cũng khác nhau; lý lẽ đó không đúng.

Hình dáng riêng của nắp bình, v.v… chỉ có nơi cái bình, v.v… là giả pháp, trên đó có cái chẳng phải cực vi, vì vậy không nên chấp cực vi cũng có hình tướng sai biệt. Vì sao?

 

Lượng cực vi bằng nhau

Dáng khác kia là giả

Tách chúng thành cực vi

Tri giác kia phải bỏ.

 

[888c11] Không phải những cực vi tạo thành bình, chậu, v.v… có hình lượng khác nhau, bởi vì bỏ đi tính chất tròn và nhỏ của cực vi thì biết những hình dáng khác nhau kia chỉ là giả, không thật. Lại nữa, những đồ vật có hình dáng khác nhau kia, nếu tách chúng ra thành cực vi thì sự tri giác về đồ vật kia chắc chắn không còn, nó chẳng còn là vật có sắc chất xanh, vàng, đỏ, trắng, v.v… Chia chẻ đến cực vi thì sự tri giác về hình tướng phải xả bỏ. Điều đó cho thấy hình tướng khác nhau chỉ là sự hiện hữu thế tục[6], chẳng phải như sắc chất xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… nơi vật thật. Như vậy, đối với năm thức, thể của sở duyên và duyên chẳng ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc; lý lẽ ấy hoàn toàn thành tựu.

Sở duyên và duyên ấy là hoàn toàn không có hay chẳng phải hoàn toàn không có? Vì sao?

 

Nội sắc như ngoại hiện

Sở duyên, duyên cho thức

Tính chúng ở trên thức

Và làm thức phát sinh.

 

[888c19] Ngoại cảnh dù không có mặt thì vẫn có nội sắc là tợ ngoại cảnh hiện hành, làm sở duyên và duyên. Chấp nhận năm thức sinh khởi mang theo những ấn tượng của nội sắc, và năm thức từ những ấn tượng ấy sinh khởi, vì có đủ hai nghĩa: sở duyên và duyên.

Ấn tượng nội cảnh ấy đã không rời thức, nó cùng sinh khởi với thức như thế nào để có thể làm duyên cho thức?

 

quyết định theo nhau

Cùng thời để làm duyên

Cái trước làm duyên sau

Công năng dẫn cái sau.

 

[888c24] Ấn tượng nội cảnh và thức quyết định đi theo nhau. Tuy ấn tượng nội cảnh đồng thời sinh khởi với thức, nhưng nó lại làm duyên cho thức. Luận sư Nhân minh nói rằng, ấn tượng nội cảnh và thức có hay không có đi theo nhau, tuy nhiên, khi chúng đồng thời sinh khởi thì cũng có tính chất nhân quả với nhau[7]. Tướng phần của thức niệm trước làm duyên cho thức niệm sau sinh khởi, tức là nói cái công năng dẫn sinh tợ tự quả từ trong [chủng tử của] bản thức khiến cho thức sau sinh khởi, và điều đó không trái với lý lẽ.[8]

Nếu năm thức sinh khởi chỉ duyên với nội sắc, thì làm sao cũng nói nhãn căn, v.v… làm duyên?

 

Công năng sắc trên thức

Gọi năm căn, hợp lý

Công năng và cảnh sắc

Vô thủy, nhân cho nhau.

 

[889a02] Do công năng phát sinh nhận thức nên suy luận biết là có căn. Đó là công năng[9] của căn, chứ không phải là cái được tạo tác ở bên ngoài.  Công năng của năm sắc căn ấy dựa trên bản thức, nên gọi là nhãn căn, v.v…[10], điều này cũng không trái lý lẽ, vì cái lý về công năng phát sinh nhận thức là không có pháp nào khác ở ngoài tâm. Không thể nói được rằng công năng ấy ở nơi thức hay ở nơi cái khác, nhưng cho rằng các pháp ở ngoài tâm, lý ấy không có, vì vậy phải nhìn nhận rằng, công năng ấy ở nơi thức chứ không ở nơi cái khác. Công năng của năm căn và nội cảnh sắc nói trên, từ vô thủy đến nay lần lượt làm nhân cho nhau, nghĩa là công năng ấy khi đến giai đoạn thành thục[11] thì có khả năng sinh ra năm loại nội cảnh sắc trên mặt hiện hành của năm thức. Những nội cảnh sắc ấy trong thức dị thục lại có khả năng dẫn khởi công năng của năm căn. Hai sắc là căn và cảnh cùng với thức, hoặc chúng là một với thức, hoặc là khác với thức, hoặc là chẳng phải một với thức, hoặc là chẳng phải khác với thức[12], đó là tùy ý thích mà nói như vậy. Tóm lại, các thức chỉ lấy ấn tượng nội cảnh sắc làm sở duyên và duyên. Lập luận này khéo thành lập.

 

@23/4/2017



[1] Trần Na (陳那, Dignàga hay Màhadignàga), Hán dịch là Đồng Thọ hay Vực Long, sinh ở cuối thế kỷ thứ 5, tại Kiến Trì Thành (Kàncipura) thuộc nước Đạt La Tỳ Trà (Dràvida), Nam Ấn.  Lúc đầu ngài học giáo lý Hữu bộ, sau chuyển sang học giáo lý Đại Thừa, kế thừa tư tưởng A lại da duyên khởi của Vô TrướcThế Thân.   Lúc lưu lại đại tu viện Na Lan Đà, ngài đã đánh bại lý luận của một nhà luận lý nổi tiếng Bà la môn tên là Sudurjaya trong một cuộc tranh luận tôn giáo. Ngài cũng chu du đến Odivisa (Orissa) và Maharattha và có các cuộc tranh luận với các học giả ở đây. Ngài cũng tinh thông môn lý luận của phái Chính Lý (Nyàya) là Nhân minh học (Hetuvidhyà), nhưng thấy còn phức tạp với 5 giai đoạn: Tôn, Nhân, Dụ, Hợp và Kết, nên ngài đã giản lược chỉ còn có 3 là: Tôn, Nhân, Dụ. Nó đã trở thành môn Luận lý học Phật Giáo. Ngài là sơ tổ của tông Nhân Minh. Trong lịch sử luận lý học của Phật giáo, tên tuổi của Trần Na chiếm một vị trí nổi bật. Ngài là người sáng lập ra lý luận Phật giáo, được gọi là cha đẻ của luận lý học Trung cổ. Ngài được xem là tác giả của khoảng trên 100 bộ luận về luận lý học. Hầu hết các bộ luận nầy hiện còn được lưu lại qua các bản dịch chữ Hán. Theo Nghĩa Tịnh thì những bộ luận của Trần Na được dùng làm sách giáo khoa về lý luận vào thời của ông. Trong số các tác phẩm quan trọng của Trần Na có cuốn Tập lượng luận (Pramanana-samuccaya), tác phẩm vĩ đại nhất của ngài, Nhân minh nhập chính lý luận (Nyaya-pravesa), và nhiều bộ khác như Quán sở duyên duyên luận (Alambanaprtyaya-hyàna-sàstra, No. 1624), Thủ nhân giả thiết luận (No. 1622), Quán tổng tướng luận tụng (No. 1623), v.v… Luận Quán sở duyên duyên là một trong 11 bộ luận của tông Duy thức: 1. Luận Du-già sư địa; 2. Luận Hiển dương Thánh giáo; 3. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh; 4. Luận Tập lượng; 5. Luận Nhiếp Đại thừa; 6. Luận Thập địa kinh; 7. Luận Quán sở duyên duyên; 8. Luận Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập; 9. Luận Duy thức nhị thập; 10. Luận Biện trung biên; 11. Luận Phân biệt Du-già.

[2] Chánh văn là tướng = hành tướng, ảnh tượng, ấn tượng. Cảnh bên ngoài tâm là đối tượng (sở duyên). Ảnh tượng tương tự đối tượng ấy xuất hiện trên tâm gọi là hành tướng. Tâm năng duyên có tướng tương tự sở duyên, gọi là đái (mang theo).

[3] Chủ trương của Kinh bộ (Sautrāntika): cực vi thực hữu, nhưng đặc tính của nó không xuất hiện trên thức do đó không phải là đối tượng của thức. Hòa hợp là tập hợp của nhiều cực vi. Thể hòa hợp là giả, y trên cực vi thực hữu mà tồn tại. Khi được nhận thức, đặc tính của thể hòa hợp xuất hiện trên thức.

[4] Quan điểm của Kinh bộ: năm thức không duyên mặt trăng thứ hai.

[5] Chỉ cho tính cứng v.v… và tính hòa tập.

[6] Hiện hữu thế tục: trên bình diện thế tục đế thì các pháp là giả danh không thật.

[7] Chánh văn là Nhược thử dữ bỉ hữu vô tương tùy. Thử chỉ cho tướng phần. Bỉ chỉ cho kiến phần. Đây là nguyên tắc của lý duyên sinh về điều kiện tính, tương đối tính và tính tương quan, tương liên: “Cái này có thì cái kia có; Cái này sinh thì cái kia sinh; Cái này không có thì cái kia không có Cái này diệt thì cái kia diệt.” Hữu tương tùyhiện hành. Vô tương tùychủng tử.

[8] Trần Na theo quan điểm nhân quả dị thời của Kinh bộ. Kiến phần của thức thuộc sát-na sau lấy tướng phần của thức sát-na trước là đối tượng (sở duyên). Khi năm thức duyên đối tượng ngoại giới, tướng phần hiện hành của năm thức được huân tập thành chủng tử. Sát-na tiếp theo, chủng tử này xuất hiện thành hiện hành tướng phần làm đối tượng. Đây là thức niệm sau duyên đến thức niệm trước.

[9] Công năng = hiện sắc: từ chủng tử của chính nó, thức xuất hiện như là ảnh tượng.

[10] Chủng tử của năm thức là căn: nhãn căn, v.v… Tướng phần của năm thức là cảnh: sắc, v.v…

[11] Thành thục vị = quả báo vị.

[12] Căn, cảnh và thức là tướng phần, kiến phầntự chứng phần của thức. Về bản thể, tướng phầnkiến phần không rời tự chứng phần, nên nói là một. Về mặt hoạt dụng, sở duyênnăng duyên hoàn toàn có riêng khác, nên nói là khác. Hoạt dụng của tướng phần, kiến phầntự chứng phần có khác nhau, nên nói là chẳng một (khác). Hoạt dụng của cả ba tuy khác mà cùng chung bản thể là thức dị thục, nên nói chẳng khác (một).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18533)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25100)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23743)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28886)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20830)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31421)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25516)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29680)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22483)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25688)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23227)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25711)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23696)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40569)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23314)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22411)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22051)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23478)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24282)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41046)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18953)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20453)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27703)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38071)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24447)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22651)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26496)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53508)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23571)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21050)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30808)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21026)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38752)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20507)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20549)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27019)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28052)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37102)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55139)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37942)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14507)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10624)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant