Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghi Thức Tụng Và Lễ Lạy 48 Nguyện Của Đức Phật A Di Đà

06 Tháng Giêng 201512:14(Xem: 44407)
Nghi Thức Tụng Và Lễ Lạy 48 Nguyện Của Đức Phật A Di Đà

NGHI THỨC TỤNG 48 ĐẠI NGUYỆN
Của Đức Phật A Di Đà

 

 

Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

Án lam tóa ha. (3 lần)

Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

 

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

 
1/. Nguyện Hương

 

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương.

Phưởng phất khắp mười phương.

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm Bồ Đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ Giác (1 lạy) o

 

2/. Kỳ Nguyện

(Riêng cho vị chủ lễ)

Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú Tam Bảo, Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, từ bi gia hộ cho đệ tử ............ pháp danh .............. phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, xa lìa khổ ách, tăng tiến Bồ đề, cùng tất cả chúng sanh đồng chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

(Đứng dậy cấp hương lên lư rồi chấp tay đứng thẳng và niệm lớn)

 

3/. Tán Thán Phật

Đấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. () o

 

4/. Quán Tưởng

 

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể bàn,

Lưới đế châuđạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. o

5/. Đảnh Lễ Tam Bảo

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) o

 

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) o

 

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.  (1 lạy) o

 

6/. Tán Lư Hương

Lư hương vừa bén chiên đàn,

Khói bay nghi ngút muôn vàn cõi xa,

Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng cho.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần) o

 

7/. Chú Đại Bi

Nam mô đại bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3lần) o 

           Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.

            Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế thước bác ra da, bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà.

            Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đát đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ, bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Bà đà ma yết tất đà dạ, ta ba ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.

            Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.(3 lần) o

8/-Kệ Khai Kinh

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

48 ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ

(Quý Phật tử có thể tụng 48 đại nguyện này vào ngày vía của Ngài, quý vị lcó thể lễ một lạy ở mỗi nguyện)

 

Điều nguyện thứ nhất: Nếu con được thành Phật mà trong cõi nước con còn có địa ngục, ngã quỷ, súc sinh thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con sau khi thọ chung còn phải sa vào đường dữ thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba: Nếu con được thành Phật mà tất cả Trời, Người trong cõi nước con thân không giống màu vàng y thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ tư: Nếu con được thành Phật mà tất cả Trời, Người trong cõi nước con thân hình còn có kẻ đẹp, người xấu thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ năm: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không biết rõ túc mệnh của mình và những việc đã xảy ra trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ sáu: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không được phép Thiên Nhãn, cho đến không thấy rõ trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bảy: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không được phép Thiên Nhĩ, không được nghe và thọ trì hết thảy lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha các Đức Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ tám: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con, không được thấy tâm trí kẻ khác, cho đến không biết rõ tâm niệm của hết thảy chúng sinh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ chín: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con, không được phép thần túc, trong một khoảng một niệm, cho đến không vượt qua được trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con còn có ý niệm tham chấp thân hình thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười một: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không trụ vào chính địnhchứng quả Niết Bàn thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười hai: Nếu con được thành Phật mà ánh sáng còn có hạn lượng, không soi thấu được trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười ba: Nếu con được thành Phậtthọ mệnh còn có hạn lượng, chỉ được trăm ngàn ức na do tha kiếp thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười bốn: Nếu con được thành Phật mà hàng Thanh Văn trong cõi nước con còn có thể tính đếm được và chúng sinh trong ba ngàn Đại Thiên thế giới ở trong trăm ngàn kiếp thành bậc Duyên Giác hết, rồi tính đếm mà biết được số đó là bao nhiêu thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười lăm: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con thọ mệnh còn có hạn lượng, trừ phi những bản nguyện riêng của họ muốn dài, ngắn đều được tự tại. Nếu không được như vậy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười sáu: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con còn có ai nghe thấy tiếng chẳng lành thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười bảy: Nếu con được thành Phậtvô lượng chư Phật ở mười phương thế giới không ngợi khen danh hiệu của con thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ mười tám: Nếu con được thành Phậtchúng sinh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chính pháp.

Điều nguyện thứ mười chín: Nếu con được thành Phậtchúng sinh mười phương phát tâm Bồ Đề, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước con, tới khi thọ chung mà con chẳng cùng đại chúng hiện ra chung quanh trước mặt người ấy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi: Nếu con được thành Phậtchúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu của con, để lòng nhớ nghĩ đến nước con, tu trồng các công đức, dốc lòng hồi hướng, cầu sinh về cõi nước con mà không được vừa lòng thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi mốt: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con chẳng được đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi hai: Nếu con được thành Phật, hết thảy chúng Bồ Tátcõi Phật phương khác sinh về cõi nước con, sau đó sẽ tới bậc Nhất Sinh Bổ Xứ, trừ bản nguyện riêng của mỗi vị tự tại hóa hiện, vì thương xót chúng sinh mà rộng lớn, bền chắc như áo giáp, tu các công đức, độ thoát hết thảy, rồi qua khắp các cõi Phật, tu hạnh Bồ Tátcúng dường mười phương chư Phật, khai hóa vô số chúng sinh khiến lập nên đạo Vô Thượng Chính Giác. Chư vị vượt ngoài công hạnh, thông thường ở các địa vịtu tập theo hạnh nguyện của đức Phổ Hiền. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi ba: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con, nương sức thần của Phật đi cúng dường các đức Phật trong khoảng thời gian một bữa ăn mà không tới được vô số, vô lượng ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi bốn: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con ở trước chư Phật hiện ra công đức, muốn có muôn vàn vật dụng để cúng dường. Nếu không được như ý thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi lăm: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con không diễn thuyết được Nhất Thiết Trí thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi sáu: Nếu con được thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước con không được thân Kim Cương Na La Diên thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi bảy: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước cùng tất cả muôn vật không có hình sắc tốt đẹp, không thể tính lường, và hết thảy chúng sinh cho đến bậc đã được phép Thiên Nhãn mà không nói được rõ ràng danh số thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi tám: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con, cho đến kẻ có ít công đức nhất không thấy được ánh sáng muôn mầu của cây Bồ Đề cao bốn trăm vạn do tuần thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi chín: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con thụ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp, mà không được trí tuệ biện tài thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi: Nếu con được thành Phậttrí tuệ biện tài của các Bồ Tát trong cõi nước con còn có hạn lượng thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi mốt: Nếu con được thành Phật thì cõi nước con thanh tịnh, soi thấy tất cả vô lượng, vô số thế giới chư Phật ở mười phương không thể nghĩ bàn, như tấm gương sáng thấy được hình dạng mặt mày của mình. Nếu không được như vậy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi hai: Nếu con được thành Phật, trong cõi nước con, từ mặt đất đến hư không, cung điện, lâu đài, hồ ao, cây cỏ và muôn hoa đều được tạo nên bằng vô lượng của báu hòa lẫn với ngàn thứ hương thơm. Tất cả đều xinh đẹp lạ lùng hơn cả cõi Trờicõi Người. Hương thơm của muôn vật tỏa ra ngào ngạt khắp mười phương thế giới. Bồ Tát ở các nơi ngửi hương thơm ấy đều tu theo hạnh của Phật. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi ba: Nếu con được thành Phật, chúng sinh trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, đều nhờ ánh quang minh của con chạm đến thân họ, khiến thân được nhẹ nhàng hơn cả Trời và Người. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi bốn: Nếu con được thành Phậtchúng sinh trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu của con mà không được pháp Vô Sinh Pháp Nhẫn và các môn thâm tổng trì của bậc Bồ Tát thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi lăm: Nếu con được thành Phậtnữ nhân trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con đều vui mừng, phát tâm Bồ Đề, chán ghét thân gái. Sau khi mệnh chung mà còn phải làm thân nữ nhân nữa thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi sáu: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con, sau khi thọ chung, thường tu phạm hạnh cho đến khi thành Phật. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi bảy: Nếu con được thành Phật mà Trời và Người trong cõi vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tu hạnh Bồ Tát, được hầu hết Trời và Người kính trọng. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi tám: Nếu con được thành Phật mà Trời và Người trong cõi nước con muốn có y phục thì y phục tốt đẹp tùy theo tâm niệm của họ tự nhiên hiện ra trên mình họ. Nếu còn phải cắt may, nhuộm, giặt thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ ba mươi chín: Nếu con được thành Phật mà Trời và Người trong cõi nước con không được sự hưởng thụ vui sướng bằng vị Tỉ Khưu đã dứt hết mọi phiền não thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật ở mười phương đều được như nguyện. Chẳng hạn, nhìn trong cây báu thấy rõ hết cả như nhìn vào tấm gương sáng thấy rõ nhân diện. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi mốt: Nếu con được thành Phật mà các chúng Bồ Tátthế giới khác nghe danh hiệu con, từ đó đến khi thành Phật mà các sắc căn còn thiếu kém thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi hai: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tátthế giới phương khác nghe danh hiệu con, đều được chính định giải thoát thanh tịnh; rồi trụ vào chính định đó trong khoảng một ý niệm cúng dường vô lượng chư Phật Thế Tôn chẳng thể nghĩ bàn, mà vẫn không mất chính định. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi ba: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tátthế giới phương khác nghe danh hiệu con sau khi mệnh chung, thác sinh vào nhà tôn quý. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi tư: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tátthế giới phương khác nghe danh hiệu con vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồ Tát, trọn đủ công đức. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi lăm: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tátthế giới phương khác nghe danh hiệu con đều được Phổ Đẳng tam muội, rồi trụ vào tam muội đó cho đến khi thành Phật, thường được thấy chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi sáu: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con muốn nghe pháp gì, đều theo chí nguyện mình, tự nhiên được nghe. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi bảy: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tátthế giới phương khác nghe danh hiệu con mà chẳng tới được bậc Bất Thoái Chuyển thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Điều nguyện thứ bốn mươi tám: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở phương khác, nghe danh hiệu con mà chẳng tới ngay được ba đức nhẫn: Âm Hưởng Nhẫn, Nhu Thuận NhẫnVô Sinh Pháp Nhẫn. Đối với các pháp của Phật mà không chứng được bậc Bất Thoái Chuyển thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.

Xướng Lễ 48 Nguyện


1. Nguyện thứ nhất: Tôi thành Phật được,
Thì nước tôi là nước tịnh thanh.
Ngục hình, ngạ quỷ, súc sanh,
Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

2. Nguyện thứ hai: Nước này tịnh giới,
Đàn bà cùng con gái tịch nhiên.
Những người trong cõi Nhân, Thiên,
Cùng loài cầm thú cần chuyên tu hành.
Thảy đều đặng hóa sanh thọ cảm
Thất bảo trì, cửu phẩm Liên hoa.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

3. Nguyện thứ ba: Dân chúng Phật đà,
Khi cần ăn uống hóa ra sẵn sàng.
Bát thất bảo, bỉ bàng đựng lắm,
Trăm món ngon khỏi sắm ở đâu.
Ăn rồi khí dụng liền thâu,
Khỏi cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

4. Nguyện thứ tư: Nhân dân trong nước,
Muốn áo quần, khăn lược, mão giầy.
Thảy đều hóa đủ sẵn bày,
Khỏi mua, khỏi giặt, khỏi may cực lòng.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

5. Nguyện thứ năm: Giáp vòng địa lợi,
Từ đất bằng lên tới hư không.
Thảy đều lầu các, điện cung,
Cùng là cây trái, ao sông, cửa nhà.
Các thứ ấy đều là trân bảo,
Cùng bá thiên hoa báu, hương thơm.
Hiệp nhau thành tạo, kết đơm,
Trau dồi trang sức, cho làm phiền ba.
Mùi hương ấy xông ra khắp đủ,
Cả mười phương hưởng thụ cấp kỳ.
Chúng sanh hạnh nguyện chuyên trì,
Tin và tưởng Phật, đến thì vãng sanh.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật
6. Nguyện thứ sáu: Dân lành quốc độ,
Thương kính nhau, ví tợ ruột rà.
Không lời qua lại bất hòa,
Không ganh, không ghét, sanh ra tranh giành.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

7. Nguyện thứ bảy: Dân sanh trong nước,
Không có lòng uế trược dâm ô.
Cũng không có tánh tục thô,
Cùng là nóng giận, hồ đồ, ngu si.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

8. Nguyện thứ tám: Chuyên trì thiện niệm,
Cứ đường ngay tiệm tiệm lướt đi.
Nếu ai muốn nói chuyện gì,
Người kia hiểu ý tức thì khỏi phân.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

9. Nguyện thứ chín: Chúng dân từ thiện,
Tai chẳng nghe những chuyện không lành.
Có đâu sự ác, sự hành,
Mấy điều nghiệp chướng đã thành vô danh.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

10. Nguyện thứ mười: Chúng sanh đều ví,
Huyễn thân là mộng mị mà thôi.
Vậy nên lòng chẳng nhiễm đời,
Tánh không tham muốn, khắp nơi vui cười.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

11. Nguyện mười một: Tiên, người tuy khác,
Hình dung đồng một sắc vàng y.
Mặt mày nghiêm chỉnh phương phi,
Trong ngần đẹp đẽ, không chi sánh bằng.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

12. Nguyện mười hai: Mười phương thế giới,
Thiên, Nhân cùng các loại súc sanh.
Hóa thân về cõi Lạc thành
Chứng ngôi Duyên giác, Thanh văn trùng trùng.
Ngồi thiền tọa tấm lòng tịch tịnh,
Hiệp cùng nhau tính tuổi ít nhiều.
Chẳng hề biết đặng bao nhiêu,
Ngàn, muôn, ức kiếp số nhiều khó phân.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

 

13. Nguyện mười ba: Thiên Nhân trên giải,
Hiệp cùng nhau đếm mãi dân cư.
Không hề biết rõ số dư,
Tại An Dưỡng quốc nhiều như cát Hằng.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

14. Nguyện mười bốn: Dân trong quốc độ,
Thảy thảy đồng trường thọ miên miên.
Không sao biết đặng số niên,
Sống lâu vô lượng, vô biên kiếp đời.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

15. Nguyện mười lăm: Dân thời thanh tịnh,
Trụ vào nơi thật tánh trạm nhiên.
Ly chư loạn tưởng đảo điên,
Đắc vô phân biệt, mãn viên Niết bàn.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

16. Nguyện mười sáu: Lạc bang dân chúng,
Vui vẻthọ dụng đủ điều.
Thảy đồng với các Tỳ kheo,
Chứng phần Vô lậu hết theo sự đời.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

17. Nguyện mười bảy: Khi tôi thành Phật,
Sẽ giảng kinh, thuyết thật độ sanh.
Làm cho sở nguyện đắc thành,
Công tôi giảng đạo trọn lành hơn ai.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

18. Nguyện mười tám: Hóa thai khỏi dục,
Người người đều đắc Túc mạng thông.
Rõ điều tiền kiếp xa trông,
Hằng hà sa số như đồng kim sanh.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

19. Nguyện mười chín: Chúng sanh ức vạn,
Đắc thần thông Thiên nhãn tịnh quang.
Thấy toàn vũ trụ mười phương,
Trùng trùng duyên khởi thế gian tỏ tường.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

20. Nguyện hai mươi: Tây phương dân chúng,
Thiên nhĩ thông, đắc dụng nghe xa.
Những lời thuyết pháp bủa ra,
Của trăm ngàn ức Phật đà khẩu tuyên.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

21. Nguyện hăm mốt: Nhân, Thiên trong nước,
Tha tâm thông biết được chẳng sai.
Những điều tâm niệm mỗi loài,
Thập phương thế giới không ngoài tánh linh.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

22. Nguyện hăm hai: Chúng sanh quốc độ,
Thần túc thông đắc ngộ rong chơi.
Bao hàm thế giới nơi nơi,
Vượt qua một mạch mau thời hơn bay.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

23. Nguyện hăm ba: Khi tôi thành Phật,
Danh hiệu tôi vang dội mười phương.
Phật và đại chúng tán dương,
Còn dân trong nước lai vương tôi hoài.
Thiên, Nhân cùng các loài thú vật,
Niệm danh tôi cho thật chí thành.
Sanh lòng vui vẻ, hiền lành,
Lâm chung sẽ đặng hóa sanh sen vàng.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

24. Nguyện hăm bốn: Ánh quang minh chiếu,
Nơi đầu tôi, tuyệt diệu rỡ ràng.
Mặt trời cùng ánh mặt trăng,
Tuy là sáng tỏ chẳng bằng Phật quang.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

25. Nguyện hăm lăm: Hào quang tôi chói,
Khắp cùng nơi chỗ tối khúc quanh.
Thiên, Nhân cùng các súc sanh,
Thấy liền đặng khởi lòng thành quy y.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

26. Nguyện hăm sáu: Bất kỳ nhân, thú,
Trong mười phương vũ trụ vân vân.
Nhờ hào quang chiếu đến thân,
Từ hòa tâm tánh hơn dân cõi Trời.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

27. Nguyện hăm bảy: Tiên, người phát ý,
Tâm Bồ đề, trì chí giới trai.
Lục Ba la mật quảng khai,
Làm nhiều công đức chẳng sai một thì.
Khi thọ mạng tới kỳ viên mãn,
Có tôi cùng các hạng Tăng lành,
Phóng quang tiếp dẫn vãng sanh,
Đặng làm Bồ tát tại thành Lạc bang.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

28. Nguyện hăm tám: Thiên, Nhân vũ trụ,
Nghe danh tôi sắm đủ bỉ bàng.
Hương, hoa, đăng, chúc huy hoàng.
Tràng phan, bảo cái cúng dường Như Lai.
Tạo tháp, tự, trì trai thanh tịnh,
Làm việc lành tâm định tưởng tôi.
Tưởng luôn trọn một ngày thôi,
Chắc là sẽ đặng nước tôi rước về.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

29. Nguyện hăm chín: Nhân, Thiên mười cõi,
Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê.
Hiệu tôi mười niệm chuyên bề,
Lâm chung sẽ đặng sanh về Lạc bang.
Trừ những kẻ hung tàn hổn tạp,
Cùng những người Phật pháp dễ khinh,
Ai mang tội ấy vào mình,
A Tỳ địa ngục thọ hình chung thân.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

30. Nguyện ba mươi: Thiên, Nhân, cầm thú,
Trong thập phương vũ trụ khôn lường.
Trước đà tạo tội thường thường,
Sau nghe danh Phật, tỏ tường cung khai.
Cầu sám hối, trì trai, giới sát,
Nguyện làm lành, nước Phật mong sanh.
Lâm chung sẽ đặng công lành,
Khỏi Tam đồ khổ, hóa sanh Liên đài.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật


31. Nguyện băm mốt: Tiên, người mười cảnh,
Nghe danh tôi, lễ đảnh theo về.
Vui mà tu hạnh Bồ đề,
Người người cung kỉnh, một bề tán dương.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

32. Nguyện băm hai: Thập phương thế giới,
Những đàn bà, con gái chán đời.
Phát tâm tín niệm danh tôi,
Thân sau tránh khỏi phục hồi nữ nhơn.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

33. Nguyện băm ba: Chúng dân mới tới,
Quả vô sanh bất thối chứng liền.
Lại thêm quả Phật siêu nhiên,
Ngoại trừ những vị bổn nguyền độ sanh.
Tôi sẽ giúp cho thành sở mộ,
Tới tha phương tế độ hàm linh.
Hạnh tu Bồ tát rất tinh,
Lại còn lấy sức oai linh hộ truyền.
Cho người ấy tinh chuyên tấn bộ,
Cùng chúng sanh tín thọ pháp huyền,
Bồ đề, Tịch diệt, Phổ Hiền,
Tấn thêm Tối thắng, cần chuyên thi hành.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

34. Nguyện băm bốn: Dân lành trong nước,
Độ chúng sanh, dùng đủ mọi phương.
Ước nguyền sẽ đặng như lòng,
Bao nhiêu nghiệp ác ba đường khỏi mang.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

35. Nguyện băm lăm: Các hàng Bồ tát,
Muốn cúng dường chư Phật đâu đâu.
Hoa hương, anh lạc, trân châu,
Liền đi khắp đủ, vừa hầu bữa ăn.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

36. Nguyện băm sáu: Muôn ngàn báu vật,
Muốn cúng dường chư Phật, Thánh Hiền.
Ước ra thì có đủ liền,
Cúng dâng khắp cả về miền chưa trưa.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

37. Nguyện băm bảy: ai vừa đọc tụng,

Hoặc thọ trì, phụng cúng chư Kinh,
Đặng tài biện luận thông minh,
Lại thêm Bát nhã, trí lành cao siêu.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

38. Nguyện băm tám: Giảng điều pháp lý,
Đủ viên thông, đầy trí tuệ tâm,
Nghĩa kinh cùng với pháp âm,
Dầu rằng vi diệu cao thâm đều cùng.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

39. Nguyện băm chín: Quốc trung Bồ tát,
Thảy thảy đồng dõng bạt kiên cần.
Mỗi người đều đặng kim thân,
Băm hai tướng tốt, mười phân sắc màu.
Thuyết các pháp gồm thâu đạo Phật,
Cũng y như chư Phật đương thời.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

40. Bốn mươi nguyện: Nước của tôi,
Hoàn toàn tinh sạch, chiếu soi một màu.
Chư Bồ tát ví như muốn thấy,
Cõi Phật nào là thấy chẳng ngoa.
Dòm trong "bảo thọ" hiện ra,
Cảnh nào Phật nấy như là soi gương.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

41. Nguyện bốn mốt: Mọi đường công đức,
Bồ tát nào chưa được hoàn toàn.
Đặng nghe, đặng thấy "Đạo tràng",
Bề cao cho đến bốn ngàn Na do.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

42. Nguyện bốn hai: Các đồ nhật dụng,
Quốc độ tôi thiệt đúng tinh minh.
Chói ngời hình sắc đẹp xinh,
Dẫu Thiên nhãn chẳng nhìn hình đặng đâu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

43. Nguyện bốn ba: Ai ai trong nước,
Chỉ mong cầu nghe được pháp kinh.
Tự nhiên sở nguyện đắc thành,
Không chờ mời thỉnh, thường tình thế gian.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

44. Nguyện bốn bốn: Thanh văn, Duyên giác,
Trong nước tôi đều đắc oai thần.
Hào quang tỏ rạng vô ngần,
Biện tài thuyết pháp ngang phần Pháp vương.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

45. Nguyện bốn lăm: Tha phương Bồ tát,
Nghe danh tôi tấn phát phụng hành.
Thảy đều đặng pháp tịnh thanh,
Định thần, giải thoát, phước lành thưởng ban.
Như ai muốn cúng dường Phật pháp,
Trong một giờ đi khắp hà sa.
Tuy là đường xá rất xa,
Định thần không lạc, thiền na chẳng lìa.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

46. Nguyện bốn sáu: Chư tôn Bồ tát
Ở tha phương nghe đạt danh tôi.
Quy y tinh tấn vừa rồi,
"Định thiền bình đẳng" phục hồi bổn nguyên.
Đắc pháp nhãn lên ngôi chánh giác,
Đặng thấy thường các bậc Như Lai.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

47. Lời nguyện bốn bảy như vầy:
Tha phương Bồ tát về đầy nước tôi.
Hướng đạo cả tâm hồi bất nhị,
Chẳng thối lui địa vị cao sâu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

48. Lời nguyện bốn tám báu mầu:
Tha phương Bồ tát khấu đầu quy y.
Chư vị ấy đắc kỳ sở nguyện,
Nhất, nhị, tam Nhẫn thiện Pháp vương.
Pháp môn của Phật khôn lường,
Thập phương vững trụ dẫn đường chúng sanh.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

 

9/-Vãng Sinh Tịnh Độ Thần Chú

Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.(3 lần)

 

Phật A Di Đà thân sắc vàng

Tướng tốt quang minh không ai bằng

Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di

Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển

Trong quang minhvô số hoá Phật

Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh

Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

 

Nam Mô A Di Đà Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.(3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

10/- Hồi Hướng

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng    

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Đời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành.


11/- Tam Tự Quy Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.
- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết không ngại.

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Đệ tửchúng sinh

Đều trọn thành Phật đạo.

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Sáu 201822:15
Khách
Nam Mô A Di Đà Phật.cho phép con dc Share
16 Tháng Hai 201614:38
Khách
dạ cho con hỏi bài này có file để tải về máy không ạ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 67727)
5 bài kệ hô canh ngồi Thiền được áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
(Xem: 8920)
Lễ nghi trong Phật giáo là bày tỏ lòng thành kính đối với các đấng thành kính. Họ là thầy tổ, là ông bà, cha mẹ và tất cả những người thân, kẻ sơ đã qua đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant