Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Danh hiệu thứ nhất: Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật

17 Tháng Chín 201200:00(Xem: 77798)
1. Danh hiệu thứ nhất: Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

Như phần trên, người viết đã đề cập, Phật giáo không phải là một Tôn giáo như nhiều người hiểu một cách thông thường mà “Phật giáo là một nền giáo dục thực tiễn, như trường học giáo dục con người, thiết thực trong đời sống hằng ngày”. Do đó những danh hiệu Phật, Bồ-tát đều là những danh hiệu, danh từ biểu pháp tượng trưng cho môn học nhằm giáo dục, giáo học răn dạy chúng ta trên bước đường tu nhân học Phật. Ngay cả những vật phẩm dùng để cúng kiếng (như bông, trái cây, đèn, nước, nhang, áo dài lam…) cũng vậy. Khi đối người, đối sự, đối vật, chúng ta phải biết áp dụng những danh hiệu Phật, Bồ-tát, những vật được thờ cúng vào đời sống hằng ngày. Chính vì thế, chúng taPhật tử cần phải hiểu biết hết ý nghĩa hết các danh hiệu của các Ngài và những vật được thờ cúng. Chúng ta đang sống trong thời kỳ hóa độ của đức BổnThích-ca Mâu-ni Phật. Do đó chúng ta cần tìm hiểu sơ lược ý nghĩa danh hiệu của Ngài.

 IV.1. Danh hiệu thứ nhất: NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT

 Giải thích danh hiệu:

 Nam-mô có 6 ý nghĩa sau: kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. Trong đó từ kính lễ, quy yqui mạng là ba từ thường dùng nhất.

 Bổn sư: Bổn nghĩa là căn nguyên, đầu tiên, cội nguồn. nghĩa là thầy dạy học.

 Thích-ca (Sakya): là tiếng Phạn, Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi, nghĩa là nhân từ.

Mâu-ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm. Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ. Tịch Mặc được hiểu là thanh tịnh.

Phật: dịch là Giác hoặc Trí. Nói cho đúng tiếng Phạn là Buddha (Phật-đà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả (bậc đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bậc:

- Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệcông phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ ải.

- Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.

- Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ-tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác hạnh viên mãn”. Chỉ có Phật mới được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn.

Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.

Do đây mà biết nhân từ cùng thanh tịnh là đức năng vốn đầy đủ trong tự tánh của chúng ta. Danh từ này, nhà Nho gọi là “nhân chi sơ tánh bổn thiện”, nhà Phật gọi là “Phật tánh”. Khi bước chân đến chùa đối diện hình tượng Ngài, niệm danh hiệu Ngài, lễ lạy Ngài, chúng ta phải tự hỏi lại bản thân của mình xem đã làm được một phần nhỏ hạnh nguyện nào giống với Ngài chưa? Khi đối người, đối sự, đối vật, chúng ta có dùng lòng từ bi không? Đối với bản thân mình có thanh tịnh không? Có bị tám thứ gió (khen, chê, lợi, suy, vui, khổ, vinh, nhục) làm tâm bất an xao động không? Nếu không, tức là thanh tịnh đối với bản thân của mình.

Dân gian Việt Nam có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Phật tử được hiểu là con Phật. Ngày nay chúng ta đang bước trên con đường đạo, con đường mà khi xưa đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni đã đi qua, đạt ngôi vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Phật quả). Vậy trước khi thành Phật, Ngài tu những công hạnh, hạnh nguyện gì? Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Đề-bà Đạt-đa thứ 12 ghi: “…Trí-Tích Bồ-Tát nói rằng: Tôi thấy đức Thích-Ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi dứt. Ta xem trong cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hạt cải nào mà không phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh. Vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề”. Công đứchạnh nguyện của Ngài, thì vô lượng kiếp chúng ta cũng không thể nào nói cho hết được. Ở đây, người viết xin dẫn ra hai mẫu chuyện tiêu biểu cho đức tính Từ biThanh tịnh như ý nghĩa danh hiệu của Ngài, để chúng ta học tập theo tấm gương của Ngài.

  • Hạnh từ bi của đức Phật:

LÓC THỊT THẾ CHIM BỒ CÂU[3]

Vào đời quá khứ, có vua Thi-tỳ cai trị một nước rộng lớn, giàu vui, đông đúc. Nhà vua rất thương dân, dân cũng rất mến nhà vua.

Một hôm, nhà vua soi gương thấy trên đầu đã có vài ba sợi tóc bạc. Vua là người có trí, ý thức được vô thường sanh diệt, nên nhường ngôi cho con rồi lên núi tu thiền cầu giải thoát sanh tử, cứu độ chúng sanh.

Đế-thích có thiên nhãn nên biết nhà vua tu thiền định, không biết ý của vua muốn cầu làm Phạm-thiên hay Đế-thích không…, liền bàn với một thiên quan. Thiên quan nói: “Nếu Đế-thích muốn biết thì phải thử”.

Thế rồi Đế-thích hóa làm chim ó. Thiên quan hóa làm chim bồ câu. Chim ó rượt chim bồ câu, chim bồ câu chạy vào lòng nhà vua cầu xin cứu mạng. Chim ó đến đòi chim bồ câu, vua Thi-tỳ không trả.

Chim ó nói: “Chim bồ câuthức ăn của tôi. Ngài cứu nó nhưng để tôi chết đói thì đâu có gọi là từ bi”.

Nhà vua nói: “Ta sẽ lóc thịt của ta tế cho nhà ngươi”.

Chim Ó nói: “Muốn cho công bình thì thịt Ngài phải cân bằng thịt bồ câu”. Vua đồng ý.

Khi cân, để chim bồ câu một bên, thịt nhà vua một bên, nhưng lạ lùng thay, bao nhiêu thịt vẫn nhẹ hơn chim bồ câu. Cuối cùng, nhà vua định bước lên cân nhưng yếu sức, té xỉu.

Lúc đó, trời Đế-thích và thiên quan hiện nguyên hình và nói với nhà vua: “Ngài tu từ bi khổ hạnh như vậy, mục đích muốn cầu quả vị gì? Cầu làm Phạm Thiên, Đế-thích, hay Chuyển luân thánh vương?”. Nhà vua trả lời: “Tôi tu hành, không cầu làm Phạm Thiên, Đế-thích hay Chuyển luân vương, mà mục đích cầu thành Phật để hóa độ chúng sanh”.

 

 thich_ca_mau_ni_phat

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - ảnh minh họa

 

Đế-thích nói: “Thân Ngài hiện nay đau đớn, Ngài có hối hận không?”

Nhà vua nói: “Tôi không hối hận”.

Đế-thích nói: “Làm sao biết Ngài không hối hận?”

Vua Thi-tỳ lập thệ rằng: “Xin mười phương chư Phật chứng minh. Nếu trong tâm tôi không có hối hận, thì xin cho thân thể tôi bình phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, vua vừa phát nguyện xong thì thân bình phục lại như cũ.

Thiên Đế-thích ca ngợi tán dương và nói: “Ngài chắc chắn sẽ thành Phật,” rồi lễ bái và biến mất.

Phật kết luận: Vua Thi-tỳ là tiền thân của ta. Vì xưa kia do lòng từ bi bố thí cả thân mạng cho chim ó nên mau thành Phật, chứng quả như hôm nay”.

  • Hạnh thanh tịnh của đức Phật:

 HẠNH NHẪN NHỤC[4]

 

Có một câu chuyện rất nổi tiếng từ tạng kinh Phật giáo minh chứng cho ta thấy sự khéo léo của Đức Phật khi đối phó với sân hận. Ngày nọ, một người Bà-la-môn, thuộc dòng quý tộcthế lực, đến gặp đức Phật. Vị Bà-la-môn này tánh khí nóng nảy, thường cãi cọ với mọi người. Ngay chính như khi người khác bị hại mà không tỏ vẻ giận dữ, ông cũng không bằng lòng. Vì thế, khi ông nghe rằng đức Phật chẳng bao giờ nổi giận, ông quyết định đến thử Ngài.

Người Bà-la-môn đi đến gặp đức Phật và tuôn ra những tràng chửi rủa, mắng nhiếc. Đức Phật lắng nghe một cách bình tĩnh trong im lặng. Vị Bà-la-môn chửi rủa từ sáng cho đến chiều, cuối cùng ngưng chửi và chờ đợi phản ứng của đức Phật. Lúc đó, đức Phật bình tĩnh hỏi ông: “Ông có gia đình hay bạn bè không?”.

“Dĩ nhiên rồi”, Bà-la-môn trả lời. “Tại sao?”.

- “Ông có thăm viếng họ thường xuyên không?”, Đức Phật hỏi.

- “Có,” người Bà-la-môn trả lời cộc cằn.

- “Khi đi thăm họ, ông có mang quà theo không?”.

- “Dĩ nhiên là tôi có!”, vị Bà-la-môn gầm lên.

- “Nhưng nếu họ không nhận quà của ông thì sao?”, Đức Phật hỏi. “Ông sẽ làm gì với món quà đó?”

- “Tôi sẽ mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình tôi” người Bà-la-môn trả lời.

- Nay ông đã mang cho tôi một món quà của những lời sỉ nhục giận dữ. Tôi không muốn nhận chúng, tôi xin trả lại cho ông. Hãy mang về nhà và chia sẻ với gia đình”.

Vị Bà-la-môn nghe Phật nói xong, biết mình đã thua cuộc, yên lặng lui ra.

Ý kiến bạn đọc
24 Tháng Hai 201808:15
Khách
Xin mạn phép giải đáp giúp Duy Anh:
Phật hạnh của đường tu là đạt đến đức hạnh cho mình, sự cảm nhận về một hạnh phúc tự thân viên mãn, ta thanh tịnh đời mình ta hạnh phúc, ta giúp người khác thanh tịnh ta vị tha. Giác tha, chính là giác ngộ của lòng bao dung biết san sẻ và giúp đỡ người khác. Nếu anh/chị chỉ tu Tiểu thừa, mới chỉ ngộ đạo, giúp thân hướng thiện thoát khỏi trần ai. Khi và chỉ khi tu Đại thừa mới cảm nhận được niềm vui của lòng nhân ái, phước lành anh/chị hưởng. Suốt đời không giác mãn, khi ấy, đạt tầm Giác hạnh viên mãn, sống bằng lòng bao dung, nhân nghĩa.
04 Tháng Sáu 201705:56
Khách
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
10 Tháng Năm 201708:42
Khách
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Nhân Ngày Khánh Đản Phât tử Thiện Tài thành kính cảm ơn Hoavouu.com cùng toàn thể Sư Thầy , sư Cô được luôn khỏe mạnh , Vạn Sự Cát Tường !
20 Tháng Năm 201621:30
Khách
Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Ðại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm

Xin mạn phép được hỏi thầy Thích Hạnh Phú, nếu đã là nguyện quy y tu hành theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì Tiểu Thừa và Đại Thừa liệu có đáng để mang ra so sánh với nhau như vậy không ?

Kính mong thầy giảng giải.
15 Tháng Mười 201523:49
Khách
Nam mô bổn sư thích ca mô ni phật
25 Tháng Tám 201512:01
Khách
A di đà phật
26 Tháng Tư 201503:25
Khách
hay qua mo phat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12801)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26650)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13060)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27029)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32872)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31665)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32587)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13026)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12150)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17503)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18736)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12580)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11783)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13134)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12215)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12502)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11641)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11991)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10608)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10932)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28337)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11176)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13602)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11041)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11436)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10902)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11190)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26355)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14888)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11064)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20337)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12362)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10769)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23918)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11862)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12307)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12836)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11050)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38739)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10544)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12202)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17715)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25057)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10558)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10769)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12056)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11317)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14747)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21443)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9905)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11266)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27377)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11186)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11846)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11013)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14314)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant