Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lòng Từ Bi

02 Tháng Mười Hai 201511:00(Xem: 13090)
Lòng Từ Bi
LÒNG TỪ BI


Toàn Không

lòng từ bi


Quán Từ Bi để trừ lòng sân giận hận thù



Từ là cho vui, Bicứu khổ diệt khổ, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho tất cả mọi loài chúng sanh, đó là hành động lợi tha cứu đời. Từ Bi không phải là thụ động yếm thế nhu nhược mà nhiều người lầm tưởng rằng hễ có lòng từ bi, ai muốn làm gì dù phải trái cũng im lặng nghe theo. Thực ra lòng từ bi khiến người ta vận dụng tâm tư khả năng phương tiện để làm cho mọi người mọi loài thoát khổ được vui, Từ Bi bao hàm ý nghĩa rộng lớn vô bờ bến, vì cho vui diệt khổ không những về vật chất mà cả tinh thần, không những với loài người mà còn bao gồm tất cả chúng sinh.



I). Tại sao phải có lòng Từ Bi?

Tính sân giận oán hờn của con người là một nguyên nhân tai hại lớn gây ra khổ đau cho người và muôn vật. Từ việc nhỏ bé gây đổ vỡ mất hạnh phúc giữa những người thân như vợ chồng anh em, họ hàng bạn bè, cho đến việc lớn như chém giết khủng bố chiến tranh giữa các phe phái, các nước, màu da, tôn giáo, v.v… Tất cả đều do sân hận mà ra, nó nằm sẵn ở trong mỗi con người, có dịp là nó bùng nổ. Vì thế từ thời tiền cổ đến bây giờ, giết chóc chiến tranh luôn luôn xảy ra không ở nơi này thì ở nơi khác, không sao dứt được cảnh khổ; Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui, vì thế chúng ta cần “quán Từ Bi” là vậy.



II). Từ Bi cho vui cứu khổ ra sao?

Người có lòng từ bi không bao giờ sát sinh người và vật, người Phật tử chân chính không giết súc vật để ăn, không giết súc vật để vui như đi săn bắn câu cá; chính nhờ lòng từ bi mà cuộc đời thêm vui bớt khổ, sự chém giết giảm đi bớt tàn khốc, người và muôn vật coi nhau như anh em họ hàng.

Nhưng chỉ cho vui và diệt khổ trong hiện tại, chưa đúng với ý nghĩa của nó, người Phật tử còn phải nghĩ đến cho vui và diệt khổ tương lai nữa, tức là phải gây nhân vui cho tương lai và diệt nhân khổ cho tương lai, làm sao thực hành từ bi ở diểm này? Mọi người đều biết tâm ý là nguồn gốc của mọi hành động thiện ác trong ý khẩu thân, ý điều khiển khẩu nói năng thân hành đông thiện ác. Do đó, muốn gây nhân vui cho tương lai và diệt nhân khổ cho tương lai chúng ta phải tu tâm ý trước nhất. Tâm ý tu rồi thì khẩu thân theo ý mà nói làm những việc tốt, bỏ nói làm các việc ác, vì thế phải chú trọng tu tâm dưỡng tánh là vậy.



III). Từ BiBác Ái khác nhau chỗ nào?

Có người cho rằng Bác Ái rộng hơn Từ Bi, có người cho rằng Bác Ái cũng giống như Từ Bi; để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta lần lượt phân tích ý nghĩa của hai danh từ này:

Bác Ái: Bác nghĩa là rộng, lớn, Ái là yêu thương, Bác Ái là lòng thương mọi người; người có lòng Bác Ái thương yêu mọi người, thường cứu giúp người hoạn nạn, ốm đau, khuyết tật, bất bình thường, nghèo khổ từ vật chất đến tinh thần.

Từ Bi, như trên đã giải thích, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho mọi loài chúng sanh, nó bao gồm sáu cõi Trời, Người, A Tu La (Thần), Súc Sinh, Ngạ Qủy, Địa Ngục. Nó rộng lớn bao la như thế chứ không chỉ một loài người, nhưng chúng ta thường sống chung và đụng chạm với loài Súc Sinhchúng ta chỉ có mắt thịt không trông thấy bốn loài kia. Từ Bi còn có ý nghĩa cho vui diệt khổ tất cả nguồn gốc ngọn ngành, chứ không phải chỉ xoa dịu cái hiện tại mà thôi, như người làm vườn không phải chỉ cắt các cây cỏ dại mọc hoang, mà phải nhổ tận gốc rễ của cây cỏ dại không cho mọc lại nữa.

Như thế Từ Bi về không gian bao gồm tất cả mọi loài trong sáu cõi, về thời gian bao gồm cả hiện tại và tương lai; còn Bác Ái về không gian chỉ chú trọng một loài người, về thời gian chỉ chú trọng trong hiện tại mà thôi. Nói một cách khác, Từ Bi bao gồm hết nghĩa của Bác Ái, còn Bác Ái không trùm được nghĩa lý Từ Bi rộng lớn.

Cũng cần phân biệt lòng từ bi và lòng yêu thương quyến luyến khác nhau mà đức Đạt Lai Lat Ma thứ 14 đã nói: “Tình yêu thương khắn khít giữa vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn bè thân thiết v.v…thường phát xuất từ lòng quyến luyến; khi lòng quyến luyến thay đổi, lòng yêu thương cũng thay đổi hay biến mất luôn, đây không phải là tình yêu thương chân thực.

Tình yêu thương chân thật không phát xuất từ sự quyến luyến, mà phát xuất từ lòng vị tha, như khi thương xót hay động lòng trắc ẩn đối với người nghèo khổ bệnh tật; trong trường hợp này, lòng từ bi của bạn sẽ tồn tại như một sự đáp ứng cho con người bị đau khổ”.



IV). Làm sao để có lòng từ bi?

Muốn huân tập được lòng từ bi, chúng ta phải dùng phương pháp quán tưởng, có ba cách sau đây:

1). Quán chúng sinh duyên từ (quán sát cảnh đau khổ của chúng sanh để phát sinh ra lòng từ bi):

Đây là phương pháp dễ thực hành nhất, khi quán thấy chúng sinh đau khổ mà thành cảm lòng thương xót đưa đến lòng từ bi sinh khởi; chúng sanh ở trong sáu cõi còn đang chìm đắm trong sinh tử phiền não nhiễm ô, chỉ có loài Trời là tốt đẹp hơn cả, nhưng vẫn còn ngũ suy trước khi lâm chung là: Tràng hoa đội trên đầu héo đi, áo choàng dính dơ bẩn, thân mất mùi thơm lại có mùi hôi, thể nữ bỏ đi, không muốn ngồi tòa nữa. Loài A Tu La (Thần) có phiền não cãi cọ, đấu tranh, xung đột, giết chóc, sợ hãi; loài Ngạ Qủy (Ma Qủy) bị đói khát bức khổ; loài đọa Địa Ngục bị giam cầm hành hạ vô cùng đau khổ liên tục lâu dài, như phải nằm trên giường chông, giường sắt nóng đỏ, bị lửa đốt, bị lột da chặt chân tay v.v…thật là khổ cùng cực. Tất cả những loài trên đây, chúng ta không thể trông thấy mà chỉ được biết qua Kinh Phật nói; còn loài Súc Sinh có nạn khổ là ăn nuốt nhau, bị loài người giết để ăn, giết hại cho vui, giết hại vì vô ý, coi sinh mạng loài vật từ lớn đến nhỏ như cỏ rác, nên loài vật khổ biết chừng nào; loài người cũng chịu khổ não từ vật chất đến tinh thần trong mưu sinh hàng ngày, cho đến già bệnh chết, có trăm nghìn nỗi khổ kể sao cho hết được.



Quán như thế nào để phát khởi lòng từ bi?

Đức Phật dạy: “Quán sát tất cả chúng sanh trong sáu cõi đều là bà con thân thuộc với mình”. Chúng tathói quen những gì ngoài ta đều không để ý đến, giờ đây chúng ta bỏ cái vỏ hẹp hòi mà nhận ra rằng:

1- Loài người chúng ta sống trên trái đất này như sống trong một cái nhà lớn, một đại gia đình, không phân biệt màu da chủng tộc, không phân biệt nước này nước kia, không phân biệt tôn giáo này tôn giáo nọ v.v…. Những sự khác biệt ấy chỉ là bề ngoài, vì ai cũng có xương thịt và các cơ quan bộ phận như nhau, cũng đồng sợ khổ thích vui như nhau v.v…

2- Rộng lớn hơn nữa, đối với năm loại chúng sinh khác, chúng ta coi như thành phần trong đại gia đình trong thái dương hệ này; mặc dù khác nhau về hình thức vì khác loài, nhưng cũng là chúng sanh có chung một mặt trời là nguồn sống chung; tất cả đều tham sống sợ chết như nhau, đều biết cảm nhận nỗi vui sướngđau khổ như nhau. Gần gũi chúng ta nhất là loài vật, tuy chúng không thông minh biết nói như chúng ta, nhưng chúng có những điểm riêng đặc biệt của chúng mà có khi ta không có. Chúng cũng biết thông cảm với chúng ta và giúp chúng ta nhiều việc lợi ích, biết đâu rằng đời trước hay đời sau này chúng chẳng phải là anh em bà con chúng ta?

Phương pháp quán này giúp chúng ta mở rộng được cái nhìn hẹp hòi của cái ngã nhỏ bé để thể nhập vào cái ngã to lớn là đại gia đình của toàn thể chúng sinh.



2)- Quán Pháp duyên từ (quán mình và chúng sinh cùng một thể tánh do đó từ bi phát khởi):

Chúng sanh đau khổ là chính ta đau khổ, phép quán này cao siêu hơn phép quán ở trên; ở đây dùng lý trí để quán sát. Lòng từ bi do duyên “pháp tánh”(bản tính chung) mà phát khởi. Hành giả quán sát thấy tất cả chúng sanh cùng mình đều đồng một “pháp giới tánh”(bản tính của chúng sinh), cho nên chúng sinh đau khổ là mình đau khổ, do đó hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh. Đến địa vị này, hành giả không còn phân biệt mình với người, không còn phân biệt thân thích hay người ngoài, và chỉ thấy mình và người có cùng bản tánh (cùng pháp giới tánh) mà thôi; các vị Bồ Tát nhận thấy mình và chúng sinh cùng đồng một bản thể, nên khi cứu khổ không còn phân biệt người đó là ai, và khi làm cũng không chấp mình đã làm. Chúng sanh có khổ thì Bồ Tát có bi, Bồ Tát đã chứng “Pháp duyên từ” chỉ có mục đích làm sao cho chúng sinh hết khổ được vui thôi.



3)- Quán Vô duyên từ (không cần duyên vẫn có từ):

Loại quán này rất cao siêu rất khó thực hành, Vô duyên từlòng từ bi không có tâm năng (làm) duyên và cảnh bị (được) duyên, không dụng công đối đãi giữa mình và người; lòng từ bi đã sẵn sàng trong thể tánh (Phật tính), nó sẵn sàng lan tràn bao la trùm khắp, không chọn lựa phân biệt. Hễ chúng sinh có nhu cầu là có đáp ứng ngay như tình thiêng liêng giữa mẹ và con, cũng như mặt trời mặt trăng chiếu soi cùng khắp không chừa chỗ nào, sự chiếu soi vô tư, không thiên lệch chọn lựa, không phân biệt chỗ dơ sạch, nơi cao thấp. Tâm từ bi luôn luôn sẵn sàng, chúng sanh hễ có cảm cầu là có linh ứng đáp lại.



V). Lợi ích của quán Từ Bi:

Người quán Từ Bi sẽ trừ được lòng sân hận giận hờn, bỏ được lòng tật đố ganh tị, dẹp được ngã chấp hẹp hòi, và đoàn kết được với mọi người; mọi người nếu đều có lòng từ bi, nhân loại sẽ không còn giận hờn giữa người và người, không còn ghét hại giữa chủng tộc này và chủng tộc kia, không còn chiến tranh giữa quốc gia này với quốc gia kia v.v…. Mối liên hệ giữa mọi người, mọi chủng tộc, mọi nước, mọi tôn giáo sẽ được gắn bó cùng nhau xây dựng hạnh phúc; lúc ấy con người vô cùng sung sướng khi thấy quanh mình toàn là bà con quyến thuộc như anh em trong một nhà cùng nhau an hòa.

Từ xưa tới nay, con người trong nhân loại bị đau khổ là do lòng sân hận giận thù gây ra, nếu mọi người biết áp dụng lòng từ bi, sự thù hằn độc ác phải giảm đi, đâu còn việc đầu độc oán hờn vương khắp nơi nơi, mưu lừa dối trá rắc reo nghi ngờ sợ hãi nữa. Nếu mọi người đều có lòng từ bi, đâu còn cảnh tạo bất an chèn ép bức đọa con người, gây khủng bố chiến tranh chết bao sinh mạng; nếu mọi người đều thực thi lòng từ bi, thế giới này là thiên đường vậy.

Trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 475 đức Phật dạy: “Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ, lưu truyền rộng nghĩa của tâm từ, vì người diễn nói, sẽ được qủa báo tốt đẹp là: Ngủ yên ổn không chiêm bao dữ, sống yên ổn không bị ác hại, được Trời Người thương mến, không bị binh đao đạo tặc xâm tổn, không bị lửa nước nguy khốn, được sinh lên cõi trời Phạm Thiên”. Cũng quyển 3 trang 176, đức Phật khuyên khi bị giam cầm chớ khởi tâm ác mà phải khởi tâm từ rải khắp

Trong Tạp A Hàm, quyển 4 Kinh 1253, 1255, 1256, đức Phật dạy: “Số người tu tập lòng từ bi ít như hòn đất trong tay so với số người không tu lòng từ bi nhiều như đất của đại địa này. Có người mang 300 chảo cơm bố thí ba lần sáng, trưa, chiều, công đức bố thí này không bằng một phần muôn ức của người rải lòng từ bi đến khắp cả chúng sinh dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn như người vắt sữa bò. Nếu có qủy thần ác muốn đến dò xét tìm chỗ sơ hở của người tu tập tâm từ bi này thì không thể được, mà ngược lại ngay lúc ấy qủy thần kia tự bị thương tổn.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9388)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6819)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7848)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8242)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8497)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8289)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8381)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11152)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8431)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10581)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9345)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9131)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9470)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10134)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18971)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8532)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 7915)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 23974)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9273)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7509)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10396)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17476)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6837)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8735)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12168)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7579)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14418)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8129)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7690)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8724)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14645)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9129)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12176)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8374)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14370)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12322)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8260)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 9991)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7651)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 15871)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8091)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8130)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7727)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11051)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9023)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9155)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8283)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7409)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7882)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8681)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9165)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11317)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7406)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12098)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 142977)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6836)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11727)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8473)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19702)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant