Trước Tác Thiên Thai Học Của Đại Sư Truyền Đăng
Thích Trung Nghĩa

Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn. Bởi nỗ lực trùng tuCao Minh cổ tự (U Khê đạo tràng) của đại sưThiên Thai Trí Di khai sơn, nên còn gọi là U Khê Truyền Đăng, U Khê đại sư, học giả gọi là U Khê hòa thượng. Lúc nhỏ học tập điển tịch Nho giáo. Sau đọc điển tịch nhập môn Tịnh độ tông Long thư Tịnh độ văn của Vương Nhật Hưu, bèn sinh tâm, phát thề nguyện xuất gia, nhưng mẹ không chấp thuận. Năm 26 tuổi, mắc bạo bệnh, mẹ liền nghĩ đến tính mạng rất nguy hiểm của con mình, nên đồng ý cho xuất gia. Lạy thiền sư Hiền Ánh Am làm sư phụ. Tham cứu Thiền tông Vĩnh Gia tập của đại sư Huyền Giác xong, bèn “ấn chứng Tào Khê, Thiền và giáo dung hợp”. Lấy Hoa nghiêm làm tông, giáo quán Thiên thai làm chỗ tựa, theo hạnh nguyện từ bi và trí tuệ bồ-tát Quán-âm để làm Phật sự.
Đại sư theo pháp sư Bách Tùng để học tập giáo quán Thiên Thai, đến năm 1582 thì được kế thừa y bát từ Bách Tùng rồi trở thành truyền nhân đời thứ 30 Thiên Thai tông. Vài năm sau, lên núi Thiên Thai, dưới sự ngoại hộ của quan thứ sử Phùng Khai Chi và các cư sĩ, đại sưđã trùng hưng chùa Cao Minh với đại quy cách hùng vĩ, thiết lập trở thành tổ đình Thiên Thai. U khê biệt chí ghi, U Khê có 8 cảnh trí lớn: sư đỉnh tùng hống, voi án hoa hồng, u khê ghềnh tuyết, hương cốc mây dăng, kim đài viễn ngắm xa, đan rọi thanh tu, cửa sổ sắc ấm, nguyệt lãnh thu minh. Đại sư đều có đề vịnh. U khê còn có 16 cảnh trí nhỏ: động viên thông, đài bát-nhã, hầm bổ nạp, phiên kinh đường, am hành đạo, ao chiếu ngã, suối không tâm, ruộng thạch hộc, dòng long vĩ, linh hương nham, cân tử nham, tây Thiên trúc, đỉnh kim ngân, am bạch hoa, thất viên y, cầu khỏa câu.
Cao Minh cổ tự là một thánh địa trên núi Thiên Thai, có địa vị trọng yếu trên sử phát triển Thiên Thai tông. Đại đức cao tăng Cự Tán nổi tiếng đã tự tay viết hai câu đối hai bên Phật điện: “Đỉnh ngưu đẹp rạng, gió phất qua tới, trăm đời hàm tôn Trí Giả”; “Trăng rọi U khê, người ngộ tánh không, tam thừa chánh chứng trung quán”.
Năm 575, Trí Di lên núi này, trước kết lô sơn trên núi Thiên Đối, tự hiệu Linh khư (灵墟), và chú giải kinh Niết-bàn. Sau chọn đất cư trú núi Phật Long, giảng kinh Duy-ma-cật. Có một ngày nọ, Trí Di đang giảng giải kinh Duy-ma-cật, bỗng nhiên một trận cuồng phong thổi đến, trang kinh bay lơ lửng về phía đông. Trí Di tìm chỗ đánh rơi trang kinh, chỉ thấy đỉnh núi và dãy núi vây quanh nơi này, u khê tĩnh cốc, rồi cảm nhận đây là một nơi tu hành tọa thiền lý tưởng. Vì thế mà phát cỏ kiết thiết phòng xá đơn giản mà thô sơ, chọn đây làm u khê đạo tràng. Sau Trí Di viên tịch, y bát và bối diệp kinh được bảo tồn nơi này. Nhà sử học Tiền Đại Hân nổi tiếng từng làm bài thơ:
“Túy lĩnh như bức họa, U Khê hướng bất đình.
Gió hắt chợt thổi rớt, một quyển Tịnh Danh kinh”
(翠岭列如屏, 幽溪响不停.
天风忽吹堕, 一卷净名经)
Túy lĩnh là đỉnh núi xanh xanh chập chùng. U Khê nằm trên núi Thiên thai đi về phía bắc 20 dặm. Nhân sơn cốc u thâm, nước suối chảy róc rách, trong veo u nhã mà được tên là u khê. “Gió hắt chợt thổi rớt, một quyển Tịnh Danh kinh” nhằm nói lúc Trí Di giảng kinh tại Chân Giác giải tự trên núi Phật Long, chợt gió hắt làm bản kinh rớt xuống, bèn lui tới năm dặm mà dựa tìm kinh, gió ngưng mà kinh rớt,. Trí Giả lần lượt xây cất chùa trên núi này, gọi U Khê thiền viện, cũng gọi U khê đạo tràng.
Đại sư hoằng dương Thiên Thai tông, kiêm nghiên tập sâu sắc đối với các kinh điển Tịnh độ, Hoa Nghiêm, Thiền tông, giảng kinh hơn 40 năm. Thế nhân khẩu truyền xưng tán Tam vô đại sư (三无大师), tức là đại sư Truyền Đăng (hiệu Vô Tận), danh tăng Hoàng Bá (hiệu Vô Niệm), thiền sư Bác Sơn (hiệu Vô Dị). Người đời sau tôn xưng đại sư là “Trí Di đại sư tái lai”. Thực ra hơn 1000 năm trước, Trí Di đã thọ ký nhục thân tỉ-khưu trên núi này. Viên tịch ngày 21 tháng 5 năm 1628. Trước lúc chết, bảo tăng chúng đem sách đến rồi viết 5 chữ: Diệu pháp liên hoa kinh, và xướng to: Diệu pháp liên hoa kinh, bất chợt tay và chân thâu tập như nhập vào thiền định mà chết, hưởng thọ 75 tuổi, 50 Tăng lạp, ở trên U khê đạo tràng suốt 43 năm.
Đại sư là một nhà Phật học có thành tựu trác tuyệt, với học thức cao siêu, trước tác vô số, có hơn 43 loại, hơn 100 quyển. Căn cứ Văn bia Đại sư Hữu Môn của tiến sĩ (niên hiệu Sùng Trinh thứ 10 triều Minh) Tương Minh Ngọc soạn, Truyền Đăng trước tác kinh có: Viên Thông, Vô Ngã, Viên Trung, Cánh Khái, Vĩnh Gia, Tâm Ấn v.v... Luận có: Dung tâm, Tánh thiện ác, Sanh vô sanh, hữu sanh vô sanh, Duyên khởi v.v... Sám có: Lăng Nghiêm, Trì danh, bồ-tát giới v.v... Chí có: Thiên Thai sơn phương ngoại gồm 30 quyển, Dục vương, Đản sanh, U khê biệt chí gồm 16 quyển v.v... Còn có Dục Phật, Nguyên đán, Tổ kị, Duyên hữu lễ văn. Đạo tụcvấn pháp, Vấn đáp 2 quyển v.v... Trong đó, Tánh thiện ác luận gồm 6 quyển là trước tác tương đối mang tính đại biểu tư tưởng đại sư. Bản sách đặc biệt còn dùng các hình vẽ tròn để mô tả các cõi. Như quyển 1 có đển 12 hình tròn, hình tròn thứ nhất là Phục minh giới thập biến bất như chân, chia ra 10 hình tròn nhỏ (10 cõi) nằm trong hình tròn lớn, tâm điểm giữa là chữ tâm bằng chữ triện. Hình tròn kế tiếp là Sai biệt giới thập duyên tùy như chân, bên trong mỗi hình tròn nhỏ có hình ảnh Phật, bồ-tát, người, ngạ quỷ v.v... tượng trưng cho 10 cõi.
Đại sư căn cứ lý luận pháp giáo của Trí Di, cho rằng thực tướng tức là “thập pháp giới thập như thị chư pháp, đều là thực tướng”. Tiến thêm một bước cấu thành thập giới, tức là “Chân như bất biến thập giới minh phục môn”. Chân như là bản giác, bản thể. Thập giới là thập pháp giới, hiện tượng. “Chân như và pháp giới đã cấu thành một phạm trù triết học trong tư tưởng tánh thiện và ác của đại sư Truyền Đăng”. Đại sư giải thích chữ chân như là “Luận về các đức Phật, chúng sanh, từ vô thỉ kiếp trước kia, lúc chưa có thức tâm, thì chân như diệu tâm bất thiên bất biến, thanh tịnh rộng lớ, thường trụ vững chắc. Kinh Hoa Nghiêm gọi là nhất chân pháp giới thanh tịnh pháp thân. Kinh Pháp Hoa gọi là chư pháp thực tướng. Kinh Viên Giác gọi là hữu đại đà la ni môn. Kinh Lăng Nghiêm gọi là bồ-đề niết-bàn nguyên thanhtịnh thể, còn gọi là không Như Lai tạng, am ma la thức, chân như Phật tánh, đại viên cảnh trí. Khởi tín luận gọi là bản giác”. “Chân như bất biến” là bản nguyên của vạn vật trong thế giới, nó bất biến vô động; thực ra cụm từ này được lấy từ Khởi tín luận. Tánh cụ thiện ácluận là tư tưởng căn bản của Phật tánh luận Thiên Thai tông
Xuyên qua vô số trước tác trên, chúng ta thấy được việc soạn một số bản kinh của đại sư rất đặc thù. Theo thống kê sơ lược của học giả hiện đại, các đại sư Phật học và cư sĩ Trung Quốc xưa nay đã viết hơn 5000 bản kinh. Lục tổ Pháp bảo đàn kinh đặc biệt được người Trung Quốc cho là kinh điển. Võ Tắc Thiên căn cứ kinh Đại Vân, trong kinh này có tiền lệ nữ nhân làm hoàng đế, rồi lệnh Tiết Hoài Nghĩa và một số người khác chú giải kinh này, viết thành Đại Vân kinh sớ thông tục dễ hiểu, xem Võ Tắc Thiên và đức Phật Di-lặc liên quan, Võ Tắc Thiên là chuyển thế của đức Phật Di-lặc.
Từ những nguyên nhân này mà hiện nay rất nhiều người hoài nghi Đại thừa kinh là phi Phật thuyết, hoặc là ngụy nghi kinh (dựa vào Phật thuyết mà ngụy tạo kinh điển), tạo nên hai cách nhìn đối lập đó là chân kinh và ngụy kinh. Trưởng lão Ấn Thuận xướng đạo, đề nghị “Mô thức ôn hòa Đại thừa phi Phật thuyết”, rồi hoàn toàn bài trừ khả năng tính của tự thân đức Phật thuyết rồi sau thông qua sự suy sùng giữa cá nhân và cá nhân, cung cấp tin tức để tiến hành truyền dẫn tin tức hoặc dùng thần thông truyền dẫn, nhằm suy phiên địa vị Đại thừa làm căn bản Phật giáo. Do đó phủ định tính Phật thuyết Đại thừa kinh. Ấn Thuận cho rằng, nếu dựa theo ngôn giáo đức Phật, rất dễ tiến hành phán đoán, như kinh Trực tiếp có thể thấy thứ 2 thuộc trong Tăng Chi bộ tập 6 kinh 48 nói:
“Pháp là trực tiếp có thể thấy, xin ngươi đến thấy, chẳng chờ thời tiết, thông đạt niết-bàn, người có trí tuệ cần phải tự thân chứng tri”. “Ưu-ba-li, tôn giả hiểu trong pháp, những pháp ấy chẳng xu hướng yểm y, vô dục, dừng bặt, an tĩnh, trực quán trí, tự giác tỉnh triệt để, cũng chẳng xu hướng giải thoát”.
Theo hai đoạn kinh này, chúng ta có thể suy định, lời kinh ấy chẳng phải pháp, luật, sự khải thị của sư tôn. Ấn Thuận mạnh dạn nhân định “Trong kinh A-hàm, sự tập thành Phật pháp, có những điều là chẳng giới hạn Phật thuyết” (tham khảo Tập thành thánh điển Phật giáo nguyên thủy). Dù Đại thừa kinh có những bản kinh không do Phật thuyết, nhưng trong Lấy Phật pháp nghiên cứu Phật pháp (以佛法研究佛法) Ấn Thuận vẫn chủ trương Đại thừa kinhlà Phật thuyết. Với lập luận, Phật pháp của Phật giáo không phải giới hạn khẩu nghiệp trong đại dụng tam nghiêp mới là giáo pháp Phật. Mà từ ý nghiệp thanh tịnh dẫn phát thân nghiệp, rồi xuyên qua sự miêu thuật của đệ tử Phật, cũng là giáo pháp Phật. Sự thuyết pháp của đệ tử Phật, không trái ngược Phật thuyết, từ căn nguyên của Phật mà ra, cho nên là Phật thuyết. Hoặc có những bản kinh có chứa đựng chân lý Phật giáo, cũng có thể gọi kinh. Ví như từ gốc nãy mầm, trưởng thành một cây to cao, cành lá sum suê. Đương nhiên hoa, lá từ cành sinh ra, quả từ hoa sinh ra, nhưng quy kết tất cả đều từ gốc sinh ra. Ấn Thuận dẫn chứng sự giải thích của Đại Trí độ luận, thuyết minh hàm nghĩa chân chánh của Phật thuyết. Còn trong kinh Đại Bát Niết-bàn hậu phần, quyển 1 do sa-môn Nhược-na-bạt-đà-la phiên dịch thời Đường, nói:
“Tôn giả A-nan hỏi, sau Như Lai diệt độ, kết tập pháp tạng, đầu tất cả kinh, trang thiết lời thế nào? A-nan! Sau Như Lai tịch diệt, kết tập pháp tạng, đầu tất cả kinh, nên trang thiết ‘Tôi nghe như vầy: một thuở nọ Phật ở phương nào đó, xứ nào đó, củng các tứ chúng, mà gọi là kinh”.
Sự kết tập những kinh điển nào đó của Tiều thừa, thậm chí phần nội dung gì đó của những kinh điển nào đó, nếu chẳng có thiên nhãn sẽ không biết được thực tình, chỉ có thể dùng nhục nhãn để thấy thì quả thực chỉ dựa vào Phật và sự trợ giúp của A-nan đó lả câu “Tôi nghe như vầy”. Còn Đại thừa kinh thì nghiêm túc đều tuân chiếu sự phó chúc của Phật. Như kinh Duy-ma-cật, là thay sứ mạng Phật, tôn giả, bồ-tát v.v... để tuyên thuyết chánh pháp.
Đại thừa kinh phải chăng do Phật thuyết? Với quan điểm thông thường, những bản kinh do Phật Thích-ca thuyết, tức là Phật thuyết. Nếu không do Phật thuyết mà cùng Phật pháp khế hợp, thì không gọi là Phật thuyết mà gọi là Phật pháp. Đó là cách nhìn nhận thường tình của thế tục, không thể nói không đúng. Ý nghĩa Phật thuyết, và sở kiến của thế tục quả thực chẳng tương đồng bao nhiêu. Vào thời kỳ bộ phái Phật giáo, đã diễn ra tranh luận giữa Phật thuyết và phi Phật thuyết. Trong Đại trí độ luận quyển 2, phẩm Tự 1 của bồ-tát Long Thọ, nêu lên Phật pháp có năm hạng người thuyết, “Một là từ kim khẩu Phật thuyết. Hai là đệ tửPhật thuyết. Ba là tiên nhân thuyết. Bốn là chư thiên thuyết. Năm là hóa nhân thuyết”. Như trong kinh Tiểu phẩm bát-nhã ba-la-mật, tôn giả Tu-bồ-đề tuân theo dạy bảo của Phật, vì các bồ-tát mà thuyết bát-nhã ba-la-mật. Còn kinh Thuyết đề hoàn nhân đắc đạo ghi: “ Phật bảoKiều-thi-ca: ‘Lời hay chân thật hế gian, lời đẹp thâm áo huyền diệu, đều trong pháp ta xuất ra”.
Trong Thành thật luận của nhà tư tưởng Phật học Ấn Độ thế kỷ thứ 4 đại sư Ha-lê-bạt-ma, nêu lên tiêu chuẩn Như Lai sở thuyết. Ha-lê-bạt-ma căn cứ luật tạng và Tăng Chi bộ rồi cho rằng sự kết tập kinh điển nguyên thủy là chân tướng giáo pháp, cũng chính là phương kế chỉ đạo tập kinh A-hàm. Còn định luận, lúc tổ thành cửu phần giáo, tuy không nhất định có gọi là bộ loại A-hàm, mà kinh pháp truyền tụng, xác thật đã không ít. Sau tập thành kinh điển, Phật thuyết và Phật pháp không phân biệt. Rõ ràng quan điểm của Ha-lê-bạt-ma được ảnh hưởngtừ cửu phần giáo hoặc thập nhị phần giáo thời kỳ bộ phái Phật giáo. Do từ nguyên nhâncách thời kỳ đức Phật rất xa, sùng ngưỡng tín niệm Phật mà lần lượt gia tăng, rồi Phật phápbiến thành Phật thuyết.
Sự cống hiến vĩ đại của đại sư đó là phục hưng U khê đạo tràng, Thiên tai tông và thiền tôngkiêm dung, chú sớ Tam tạng phong phú. Đốn ngộ Tào khê tâm tông mà chú sớ Bát-nhã dung tâm luận (般若融心論). Dùng Tánh thiện ác luận để hoằng diễn pháp môn tánh cụ Thiên Thai. Dùng duy tâm tịnh độ, tự tánh Di-đà để xiển thuật Tịnh độ sanh vô sanh luận. Phỏng theo tổ sư Tịnh độ tông mà kết tập Liên xã niệm Phật. Tu chứng Lăng nghiêm đàn pháp mà chẳng gián đoạn rồi soạn Lăng Nghiêm kinh viên thông sớ 10 quyển. Hoằng dương bồ-tát đạo Đại thừa, hoằng pháp khắp nơi. Trong trước tác đều nhấn mạnh sự phát khởi bồ-đề tâm Đại thừa. Suốt đời chuyên tu tập pháp môn nhĩ căn viên thông. Đến tuổi già niệm Phật cầu sanh tịnh độ, lễ bái ngàn đức Phật vạn đức Phật ngày sáu thời. Trong vô số trước tác của đại sư đã ảnh hưởng đời sau rất trường viễn. Đại sư Liên Trì Châu Hoằng, Tử Bá Chân Khả, Hám Sơn Đức Thanh, Ngẫu Ích Trí Húc đều có tán dương đại sư và ảnh hưởngsâu sắc đến Phật giáo cận đại.
VĂN HIẾN THAM KHẢO
1. Hoàng Hạ Niên, Tham cứu sơ lược Chân như bất biến giới minh phục môn của đại sưTruyền Đăng, đăng trên Nghiên cứu chánh pháp, 2004
2. Đại Tây Ma Hy Tử (giáo sư đại học Phật giáo Nhật Bản), Chúc Thế Khiết dịch, Võ Tắc Thiên và Phật giáo, đăng trên Niên báo Nghiên cứu Đôn Hoàng tả bản, số 13, 2019, trang 33-50
3. Thích Trường Từ, Hồi đáp Ấn Thuận đạo sư cho rằng Đại thừa là phi Phật thuyết ư?,2017
4. Lâm Nhất Luyến, Nghiêu cứu đại sư U Khê Truyền Đăng (1554-1628) cuối triều Minh
- Từ khóa :
- Thích Trung Nghĩa