Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Thực Nghiệm Tâm Linh

09 Tháng Mười 201707:41(Xem: 6377)
Con Đường Thực Nghiệm Tâm Linh
Con Đường Thực Nghiệm Tâm Linh

Thích Thái Hòa

Con Đường Thực Nghiệm Tâm Linh

                                    
    

Ý Nghĩa Tổng Quát

Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển, từ cô đọng đến khai triển, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ phương tiện đến cứu cánh, qua các văn hệ kinh điển từ A hàm đến Đại thừa với nhiều thính chúng và nhiều căn cơ khác nhau.

Đạo đế ở trong Tứ Thánh đế được các kinh điển Phật giáo nhấn mạnhcon đường diệt tận khổ đau và thành tựu các thánh quả giải thoát cho những ai có tín cănnỗ lực thực hành.

Tín căncăn bản của đức tin được thiết lập trên nền tảng của Phật Pháp Tăng và Giới.

Tín cănyếu tố đầu tiên của Ngũ căn. Ngũ căncon đường thực nghiệm đời sống tâm linh, dẫn ta đi tới với Thánh đạoPhật đạo. Ngũ căn gồm có: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căntuệ căn.

Ngũ lực là từ nơi Ngũ cănsinh khởi. Ngũ lực gồm có: Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lựctuệ lực. Nhờ các pháp hành căn bản này mà đưa ta đi vào được ở trong Thánh đạoPhật đạo.

Ngũ cănNgũ lực thuộc về Đạo đế ở trong Tứ Thánh đế, do đức Phật chuyển vận pháp luân đầu tiên tại vườn Nai, cho năm anh em Kiều Trần Như, sau khi Ngài thành đạo.

 

Phương Pháp Thực Hành

 

1-     Thực hành Tín cănTín lực

Tín căncăn bản của đức tin.Căn bản đức tin của người Phật tửdựa vào đâu?

Căn bản đức tin của người Phật tửdựa vào nền tảng của Phật Pháp Tăng và Giới. Nếu người Phật tử không thiết lập sự tu học của mình trên nền tảng Phật Pháp Tăng và Giới, thì không thể gọi là Phật tử và không bao giờ trở thành Phật tử.

Vì vậy, người Phật tử là phải thiết lập sự tu học của mình trên nền tảng Phật Pháp Tăng và Giới. Đức tin của người Phật tử được thiết lập trên nền tảng Phật Pháp Tăng và Giới, gọi là tín cănthực tập làm cho đức tin ấy lớn mạnh trong đời sống,gọi là tín lực.

 

Trong đời sống hàng ngày, nếu đức tin của ta không có gốc rễ và không bám lấy gốc rễ, thì ta sẽ không có sức mạnh của đức tin. Không có sức mạnh của đức tin đối với Phật Pháp Tăng và Giới, ta sẽ không có khả năng chấm dứt các điều xấu ác và thực hành những điều tốt đẹp. Không có đức tin đối với Phật Pháp Tăng và Giới, ta sẽ không có đủ khả năng làm cho mình thanh tịnh được tâm ý. Không có đức tin đối với Phật Pháp Tăng và Giới, ta sẽ không có khả năng chấm dứt những khổ đau do sinh tử đem lại. Không có đức tin đối với Phật Pháp Tăng và Giới, ta sẽ không có đủ khả năng để phát khởi tâm bồ đề và không có đức tin đối với Phật Pháp Tăng và Giới, ta không có đủ khả năng nuôi lớn tâm bồ đề nơi ta và làm thiện tri thức đối với mọi người và muôn loài, để khiến cho tất cả đều biết được chính họ đang có tâm bồ đề và có đủ khả năng phát khởi tâm ấy đến chỗ hoàn mãn. Không có tâm bồ đề, ta không có đủ khả năng thương yêuphục vụ mọi người, cũng như chúng sanh bằng những nghĩa cử cao quý, bất vụ lợi.

Nên tất cả những nghĩa cử tốt đẹp, cao thượng của người Phật tử là do thực hành tín căntín lực đem lại. Những nghĩa cử tốt đẹp và cao thượng ấy của người Phật tử là có thật, vì chúng là những sinh chất được sinh khởinuôi dưỡng từ đức tin của người Phật tử đối với Phật Pháp Tăng và Giới.

 

2-     Thực hành Tấn căn và Tấn lực

Tín lực từ nơi tín cănsinh khởi và khi ta có tín lực rồi, thì ta phải thực hành tấn căn và tấn lực. Thực hành tấn căn tức là talàm cho tín căn có mặt ở trong đời sống của ta. Thực hành tấn lực là ta nỗ lực làm cho Phật Pháp TăngGiới không những có mặt nơi ta mà còn làm cho lớn mạnh và phát triển toàn thể trong đời sống hàng ngày của ta.

 

Vì vậy có nhiều người cho rằng, đạo Phật không đơn thuầntín ngưỡng cầu nguyện, không đơn thuần là một tôn giáo nhấn mạnh và rao giảng đức tin là nhờ họ nhận ra rằng, trong đạo Phậtyếu tố tấn căn và tấn lực này.

 

Các tôn giáo khác nhấn mạnh đức tin, trong lúc đó Phật giáo không những nhấn mạnh đức tin mà còn nhấn mạnh sự cụ thể hóathực tiễn hóa đức tin, bằng đời sống qua tấn căn và tấn lực. Tấn căn, tấn lực là cụ thể, thực tiễn hóa tín căntín lực, khiến tín căntín lực sinh khởi và lớn lên ngay nơi cuộc sống con người.

Thực hành tấn căn và tấn lực là ta có khả năng làm cho đời sống của ta vươn lên đời sống của đức Phật và biến những chất liệu giác ngộ của đức Phật có mặt ngay trong đời sống của chính mình và trở thành đời sống của chính mình.

 

Thực hành tấn căn và tấn lực là ta có khả năng làm cho đời sống của ta vươn lên và gắn liền với chánh pháp, gắn liền với Phật pháp. Phật pháp và ta không còn là hai thực thể cá biệt, mà Phật pháp có mặt trong ta và ta có mặt ở trong Phật pháp, khiến cho đời sống của ta là đời sống của Phật pháp.

Thực hành tấn căn và tấn lực là ta có khả năng làm cho đời sống của ta vươn lên và gắn liền với bản thể thanh tịnhhòa hợp của Tăng, khiến đời sống thanh tịnhhòa hợp của Tăng có mặt và lớn mạnh trong đời sống của ta và đời sống thanh tịnh, an hòa của ta có mặt ở trong sự thanh tịnhhòa hợp của Tăng.

Thực tập tấn căn và tấn lực là ta có khả năng chặt đứt mọi hệ lụy của phiền não sinh tử để vươn tới bản chất giải thoát của giới, khiến cho đời sống của ta không bị tỳ vết bởi các dục, khiến cho các thiện pháp trong đời sống của ta, mỗi ngày đều được thăng tiến đến chỗ viên mãn tốt đẹp

Người Phật tử tin Phật có tấn căn và tấn lực, nên không phải chỉ biết chắp tay cầu nguyện đức Phật phù hộ cho mình, mà còn biết biến những chất liệu của Phật trở thành chất liệu của mình và mình cũng có thể trở thành một vị Phật trong tương lai.

Người Phật tử tin Pháp có tấn căn và tấn lực, nên không phải là đức tin thiếu thực tế, thiếu ứng dụng, mà phải biết ứng dụng chánh pháp vào trong đời sống thực tế, khiến cho tự thân của đời sống phàm tục thay đổi.

Người Phật tử tin Tăng có tấn căn và tấn lực, nên không phải kính Phật trọng Tăng một cách mơ hồ, thiếu thực tế, mà phải biết ứng dụng đức thanh tịnh và hòa hợp của Tăng vào trong đời sống thực tế của chính mình, khiến cho sự tịnh hóa thân tâm và an hòa trong cuộc sống của người Phật tử thực sự có mặt để hộ trì Tam Bảo.

Người Phật tử tin giới có tấn căn và tấn lực, khiến cho họ không những có khả năng phòng hộ những điều xấu ác từ bên ngoài, mà còn có khả năng phòng hộ những điều xấu ác như tham, sân, si, kiêu mạn từ nội tâm và phát triển bồ đề tâm, bồ đề nguyện, bồ đề hạnh đến chỗ viên mãn.

Người Phật tử thực tập như vậy, gọi là thực tập tấn căn và tấn lực. Thực tập tấn căn, tấn lực là nỗ lựcbiến tín căn, tín lực trở thành đời sống của tự thân. Thực tập tấn căn, tấn lựclà làm cho tín căn, tín lực có mặt liên tục không gián đoạntrong đời sống của ta đối với mọi thời gian và đối với mọi không gian.

 

3-Thực tập niệm cănniệm lực

 

Muốn duy trì sự không gián đoạn của tín căntín lực, thì ta phải thực tập niệm cănniệm lực.

Tin và biến đức tin trở thành hiện thực trong đời sống của mình là tấn. Duy trì đức tin có mặt trong ý thức của mình, quaăn uống, ngủ nghỉ, đi đứng, nằm ngồi, làm việcthì đó là niệm căn. Niệm lực là từ nơi niệm cănsinh khởi.

Cho nên, căn bản của niệm cănniệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăngniệm Giới.

Niệm lựcsức mạnh của niệm,do thực tập niệm cănsinh khởi, khiến cho Phật Pháp Tăng và Giới được duy trì trong ý thức của mình một cách thường trực. Khi một Phật tử đã duy trì được Phật Pháp Tăng và Giới có mặt thường trực ở trong ý thức của mình, thì vị đó không bao giờ lạc vào đường tà; vị đó không bao giờ quy y trời, thần, quỷ, vật; vị đó không bao giờ quy y ngoại đạo tà giáo và vị đó không bao giờ bị xu hướng khuynh tả hay khuynh hữu chi phối.

Một người Phật tử có thể bỏ Phật, vì họ bỏ quên thực tập niệm cănniệm lực hoặc do họ không hề thực tập niệm cănniệm lực. Còn nếu họ luôn luôn thực hành niệm cănniệm lực, thì Phật Pháp Tăng và Giới luôn luôn có mặt hiện tiền trong ý thức của họ, khiến họ không bao giờ rời bỏ Phật PhápTăng và Giới.

Một Phật tử thực tập niệm cănniệm lực như vậy, đời sống của họ không bao giờ bị rơi vào tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định.

Thực tập niệm căn và niệm lưc, khiến cho những phẩm chất của Phật Pháp Tăng và Giới có mặt hiện tiền ở nơi tâm của mình, ở nơi ý thức của mình và làm cho những phẩm chất của Phật Pháp Tăng và Giới, tăng trưởng lớn mạnh ở nơi ý thức của mình, cũng như ngay nơi những hành hoạt của mình, gọi là niệm lực.

Khi niệm căn trở thành niệm lực, thì đời sống của mình thanh thoát, nhẹ nhàng, các phiền não không còn chi phối đời sống của mình nữa, mà mình sẽ đi đúng hướng và đúng chánh đạo, không rơi vào tà đạo, tà kiến.

Tà kiến thì không còn là Phật tử. Tại sao? Vì nơi đời sống của họ, Phật Pháp Tăng và Giới đã thật sự vắng mặt.

Tà kiến là cái nhìn bị thiên lệch, không trung chính. Cái nhìn bị mắc kẹt về một phía, gọi là tà kiến. Nghĩ về một phía, gọi là tà tư duy. Nói theo luận điểm một chiều, gọi là tà ngữ. Hành hoạt nghiêng về một phía, gọi là tà nghiệp. Nuôi dưỡng đời sống bằng tà ngữ, tà nghiệp gọi là tà mạng. Nhớ nghĩ và duy trì luận điểm một chiều trong tâm, gọi là tà niệm và tập trung tâm ý vào nơi luận điểm một chiều, gọi là tà định.

Niệm cănniệm lựcduy trì Phật Pháp Tăng và Giới có mặt và lớn mạnh nơi sáu quan năng của mình. Khi sáu quan năng của mình đã được Phật Pháp Tăng và Giới phòng hộ và tịnh hóa từ nơi tâm ý, thì mình có thân tâm an lạc. Bấy giờ các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, không còn xâm nhập sáu căn để đi vào nội tâm của mình một cách tự do, vì sao? Vì chúng đã bị giám sát và gạn lọc bởi sức mạnh của các niệm thuộc về Phật Pháp Tăng và Giới.

Khi sáu căn đã được phòng hộ và tịnh hóa, thì giặc bên ngoài không thể xâm nhập vào thân và tâm của ta được nữa. Giặc phiền não trong tâm của ta càng ngày càng bị cô lập và bị tê liệt dần.

Bởi vậy, ta tu tập không thành công là vì không có Phật Pháp Tăng và Giới phòng hộ và gia trì cho ta.

Ta tu tập không thành công là do ta không thực hành niệm cănniệm lực. Thực tập niệm căn, niệm lực, giúp ta thắng được các loại giặc bên ngoài để tự thắng lấy giặc bên trong của chính mình. Giặc bên trong là những bận rộn trong tâm, những suy nghĩ không chính đáng ở trong tâm ta. Muốn thắng giặc bên trong, ta phải biết thực tập niệm cănniệm lực để phong tỏa và phòng hộ các tạp trần từ bên ngoài.

Thực tập niệm cănniệm lực là khi mắt nhìn các đối tượng thuộc về sắc, ta phải biết nhìn trong sự lắng yên để lọc, khiến cho các tạp sắc và sắc ô nhiễm bị loại trừ.

Thực tập niệm cănniệm lực là khi tai nghe các đối tượng thuộc về âm thanh, ta phải biết nghe trong sự lắng yên để lọc, khiến cho các tạp thanh và thanh ô nhiễm bị loại trừ.

Thực tập niệm cănniệm lực là khi mũi ngửi các đối tượng thuộc về hương, ta phải biết ngửi ở trong sự lắng yên để lọc, khiến cho các loại tạp hương và hương ô nhiễm bị loại trừ.

Thực tập niệm cănniệm lực là khi lưỡi nếm các đối tượng thuộc về mùi vị, ta phải biết nếm ở trong sự lắng yên để lọc, khiến cho các loại tạp vị và vị ô nhiễm bị loại trừ.

Thực tập niệm cănniệm lực là khi thân tiếp xúc với các đối tượng thuộc về xúc giác, ta phải biết xúc chạm ở trong sự lắng yên để lọc, khiến cho các loại tạp xúc và xúc ô nhiễm bị loại trừ.

Thực tập niệm cănniệm lực là khi ý căn tiếp xúc với các đối tượng thuộc về tâm ý, ta phải biết tiếp xúc ở trong sự lắng yên để lọc, khiến cho các tạp loại ảnh tượngcác loại ảnh tượng ô nhiễm bị loại trừ.

Trong các phương pháp gạn lọc ấy, quan trọng nhất là phương pháp gạn lọc tâm ý. Ta gạn lọc các cách nhìn, nghe, ngửi, xúc chạm là để hỗ trợ cho cách gạn lọc tâm ý của ta có hiệu quả. Khi các quan năngtiếp xúc với sáu trần đã đượclọc kỹ rồi, thì việc lọc tâm ý hay tự tịnh kỳ ý không còn là việc khó.Nếu tâm ý ta không lọc được là vì ta không lọc được từ các cách nhìn, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm của ta đối với các đối tượng của nhận thức.

Thực tập niệm cănniệm lựctác dụng làm cho Phật Pháp Tăng và Giới luôn luôn có mặt hiện tiền trong các quan năng nhận thức của ta, khiến cho mọi nhận thức của ta đều được gạn lọc, để trở thành sáng trong thuần tịnh ở trong an tịnh.

 

4-Thực tập định cănđịnh lực

Khi ta thực tập niệm cănniệm lực đến chỗ thuần thục,thì định cănđịnh lực sẽ sinh khởi trong ta.

Định căncăn bản của thiền định, ấy là thiền định thiết lập trên niệm cănniệm lực. Nếu khôngthực tập niệm cănniệm lực thì định cănđịnh lực sẽ không có cơ sở để sinh khởi.

Cho nên, muốn đi tới định cănđịnh lực là ta phải thực tập niệm cănniệm lực. Thực tập niệm cănniệm lực là làm cho ý thức tỉnh giác có mặt hoàn toàn ở trong mỗi động tác của mình: đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, ăn uống đều ở trong tỉnh giác. Thức hay ngủ đều ở trong tỉnh giác và làm cho tỉnh giác tăng trưởng lên, lớn mạnh lên, thấm sâu và kết thành một khối năng lượng tỉnh giác duy nhất, vững chãibất động, ấy là định căntừ định căn sinh khởi định lực.

Do đó, niệm cănniệm lực kết thành khối, tạo ra định cănđịnh lực. Định cănđịnh lực là kết quả tất yếu từ niệm cănniệm lực dẫn sinh, khiến mọi hành hoạt của ta làm cho tâm ta sinh khởi bốn đức tính.

- Trí đức là đức của trí do thiền định làm sáng lên ở nơi tâm ta. Trí đức từ nơi thiền định sáng lên nơi tâm ta, nó sinh khởi từ nơi quá trình thực tập tín căn - tín lực, tấn căn - tấn lực, niệm cănniệm lực, định cănđịnh lực của ta đối với Phật.

- Minh đức là đức sáng suốt sáng, sáng lên nơi tâm ta. Minh đức từ nơi thiền định sáng lên nơi tâm ta, nó sinh khởi từ nơi quá trình thực tập tín căntín lực, tấn căn – tấn lực, niệm cănniệm lực, định cănđịnh lực của ta đối với Pháp.

- Tịnh đứcđức thanh tịnh, sáng lên nơi tâm ta. Tịnh đức từ nơi thiền định sáng lên nơi tâm ta, nó sinh khởi từ nơi quá trình thực tập tín căntín lực, tấn căn – tấn lực, niệm cănniệm lực, định cănđịnh lực của ta đối với Tăng.

- Giải thoát đức là đức giải thoát, sáng lên nơi tâm ta. Giải thoát đức là đức từ nơi thiền định sáng lên nơi tâm ta, nó sinh khởi từ nơi quá trình thực tập tín căntín lực, tấn căn –tấn lực, niệm cănniệm lực, định cănđịnh lực của ta đối với Giới.

Bốn đức tính của Phật Pháp Tăng và Giới ngời sáng lên trong tâm ta, trong đời sống của ta là nhờ ta thực tập gắn liền đời sống của ta với Phật Pháp Tăng và Giới qua tín; nỗ lực làm cho Phật Pháp Tăng và Giới trở thành cụ thể trong đời sống của ta qua tấn; duy trì sự có mặt của Phật Pháp Tăng và Giới thường trực nơi ý thức của ta và trong mỗi hành hoạt của ta qua niệm và làm cho các đức tính của Phật Pháp Tăng và Giới tụ lại thành khối, tinh kết bất động và sáng lên trong tâm ta, trong đời sống của ta qua định.

Với năng lượng của thiền định ấy, nó có năng lực hộ trì đời sống của ta, khiến cho các phiền não vĩnh viễn không sinh khởi trở lại nơi tâm ta. Ta có khả năng bất động đối với hết thảy các loại phiền não.

 

5- Thực tập tuệ căntuệ lực

Khi niềm tin tu học của ta đã tăng trưởng thành một khối bất hoại, bấy giờ Phật  Pháp Tăng và Giới, trở thành tinh chất trong đời sống của ta và tinh chất đó sẽ sáng lên thành tuệ căn.Tuệ lực từ nơi tuệ cănsinh khởi.

Một khi tuệ lực viên mãn sẽ đẩy ta đi tới với chánh kiến. Khi thành tựu chánh kiến,ta thấy rõ sự thật của khổ; thấy rõ những tập khởi hay tác nhân của khổ; thấy rõ sự thật của hạnh phúc hay sự vắng mặt hoàn toàn của khổ đau; và thấy rõ con đường chân thật diệt tận khổ đau.

Khi ta có cách nhìn của chánh kiến từ tuệ căntuệ lực sinh khởi, ta thấy rõ sự thật của mọi sự hiện hữu ở trong thế gian là do tương quan sinh khởi, nên chúng là vô thường, trống rỗng nội dung và không có ngã thể.Và thể tính rỗng không nơi mọi sự đang hiện hữu làm bản thể cho mọi sự thể, mọi hình thể, khiến chúng biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau.

Chánh kiến là thấy khổ đúng sự thật của khổ; thấy tập đúng sự thật của tập; thấy  diệt đúng sự thật của diệt và thấy đạo đúng sự thật của đạo. Và nhờ có chánh kiến, mới thấy được mọi sự hiện hữu do duyên sinh khởi, chúng đều hiện hữu như hư huyễn, như giấc mộng, như bọt nước, như ảnh tượng, như sương mai, như điện chớp… Tuy, hư huyễn, nên chúng không phải là thường và tuy vô thường, nhưng do chúng quan hệ tương tục với nhau trong tương quan nhân quảduyên khởi, nên không phải bị diệt mất.

Nhờ có chánh kiến, ta mới thấy rõ ta có Phật tính và hết thảy chúng sinh đều có Phật tính để tin yêu và tu tập, để giúp nhau hướng thượng và hướng thiện.

Nhờ có chánh kiến, ta mới thấy rõ mọi phẩm giá của chính mình để tôn trọnghướng thượng và nhờ thấy rõ hết thảy chúng sanh đều có Phật tính, nên mới khởi tâm từ bi yêu quý chúng sanh và tạo điều kiện để tâm bồ đề hay Phật tính nơi tâm của chúng sanh được hiển lộ.

Ta khởi tâm yêu quý chúng sanhtôn trọng Phật tính nơi hết thảy chúng sanh, nhưng chúng sanh chưa chắc họ đã hạnh phúc mà chất liệu khiêm ái nơi ta đã sinh khởihạnh phúc nơi ta đã tròn đầy.

Đức tin của các bậc thượng nhân là tin mình có Phật tính và khi có đủ nhân duyên, thì Phật tính nơi tâm mình cũng sẽ hiện khởi để thực hiện hạnh từ bi giúp đời. Và tin hết thảy chúng sanh đều có Phật tính, nên phát khởi đại nguyện từ bi, sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, để giúp chúng sanh giác ngộ Phật tính và biểu hiện Phật tính trong cuộc sống.

Giác ngộ Phật tínhứng dụng Phật tính vào trong đời sống hàng ngày, bằng sự chánh niệm, tỉnh giác, khiến các oai nghi đi đứng nằm ngồi nơi ta, biếu hiện một cách tự nhiên. Mỗi bước đi ở trong chánh niệm tỉnh giác, đều có khả năng diệt trừ cho ta vô lượng vọng niệm; mỗi cách đứng của ta ở trong chánh niệm tỉnh giác, có khả năng diệt trừ cho ta vô lượng niệm tưởng mắc kẹt; mỗi cách ngồi của ta ở trong chánh niệm tỉnh giác có khả năng trừ diệt cho ta vô lượng vọng tưởng chấp thủ, vọng cầu.

 

Điểm Đến Của Con Đường

Với sự thực tập ngũ cănngũ lực, và kết quả do pháp hành này đem lại, ta có thể bảo rằng, đạo Phật cũng là tín ngưỡng, cũng là tôn giáo, cũng làtriết học, cũng là khoa học, cũng là khoa học ứng dụng hay là con đườngthực nghiệm tâm linh, con đường của trí tuệtừ bi. Nhưng, đạo Phật không phải là những tên gọi ấy.Đạo Phật, chỉ là đạo Phật thôi.

Với con đường thực nghiệm này, đạo Phật không những giúp cho ta thấy rõ sự thật về mình, thấy rõ sự thật về người, mà còn giúp cho ta thấy rõ sự thật không phải là ta, sự thật không phải là người, sự thật không phải là chúng sanhsự thật không phải là phi chúng sanh. Không những vậy, còn giúp cho ta, thấy rõ sự thật vềthế giới, thấy rõ sự thật không phải thế giới, thấy rõsự thật cái tạo nên thế giới, thấy rõ sự thật cái không phải tạo nên thế giới;thấy rõ sự thật của khổ và thấy rõ sự thật của con đường thoát khổ.

Thực tập tuệ căn, tuệ lực đến chỗ viên mãn thành tựu chánh đạo, các phiền não nơi tâm ta hoàn toàn bị nhiếp phục, thành tựu chánh kiến, khiến cái nhìn của ta xuyên suốt nhân duyên khắp cả mười phương và xuyên suốt nhân quả ba đời, thính giác không bị chướng ngại bởi các âm thanh, sự an lạc không bị chướng ngại bởi các khổ sanh già bệnh chết và tâm thanh tịnh không bị chướng ngại bởi hết thảy phiền não.

Thực tập Ngũ căn, Ngũ lực là ta luôn nhớ mọi sự hiện hữuthế gian này là vô thường, không có ngã tính.Mọisự hiện hữu là để yểm trợ cho nhau và cùng giúp nhau hiện hữu.Từ đó, ta có thể buông bỏ tính chấp ngã, tính ích kỷ nơi ta một cách nhẹ nhàng.Buông bỏ được tính chấp ngãích kỷ nơi ta, thì ta đứng ở đâu, sống với ai, làm việc gì ta cũng cảm thấy dễ chịuhạnh phúc.

Ta không thể rao giảng đức tin cho người khác, nếu ta không có đức tin. Ta không thể truyền giảng Phật pháp cho người khác, nếu ta không có đức tin đối với Phật pháp từ sự thực nghiệm tâm linh của ta.

Ta lạy Phật là ta lạy hết lòng, xung quanh ta có ai biết hay không là chuyện của người khác, không phải là chuyện của ta; chuyện của ta là đem hết lòng thành để lạy Phật trong giờ phút đó, và trong giờ phút đó, Phật liền có mặt một cách trọn vẹnhoàn hảo  cho ta kính lễ.

Như vậy, ta thực tập lạy Phật có nội dung của Ngũ căn, Ngũ lực, ta thực tập thiền quán có nội dung của Ngũ căn, Ngũ lực; ta ăn chay có nội dung của Ngũ căn, Ngũ lực… thì nhất định hoa trái hạnh phúcan lạc sẽ sinh ra trong đời sống của ta.

Cho nên, nếu ta thực tập Ngũ căn, Ngũ lực một cách trọn vẹn, ta sẽ biết ta là ai? Ta sẽ biết ta từ đâu mà đến đây, đến đây để làm gì và sau khi chết ta sẽ đi về đâu?

Nếu ta thực tập Ngũ căn, Ngũ lực một cách toàn hảo, thì ta cũng sẽ giữ gìn thành tựu năm giới quý báu của người cận sự một cách toàn hảo. Không những vậy mà các giới pháp của người xuất gia, cho đến các giới pháp Bồ tát Đại thừa ta cũng có thể thọ trìgiữ gìn một cách toàn hảo. Giữ gìn giới pháp có nội dung của Ngũ căn, Ngũ lực không phải chỉ để hoàn hảo cho tự thân mà còn giúp cho người khác hoàn hảo, và giúp cho cả thế giới của chúng sanh đều trở nên hoàn hảo.

Ta thực tập và nhìn sâu vào năm giới quý báu của người cận sự, các giới pháp của người xuất gia và các giới pháp thuộc Đại thừa Bồ tát, đều chuyển tải nội dung của Ngũ cănNgũ lực.

Vì vậy, thực tập Ngũ căn, Ngũ lực là ta biết rằng, ta đang đứng ở đâu trên con đường thực nghiệm tâm linh và điểm đến của con đường ấy là ở đâu, trên con đường tâm linh mà ta đang thực tậpbước tới.

 

                                                                                                         Thích Thái Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5798)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7414)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6346)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5952)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4734)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5659)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5827)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6106)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6584)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5921)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7022)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6629)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4751)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4906)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7669)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9795)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7493)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5298)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6406)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5398)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5816)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6381)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5685)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6394)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7049)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6260)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10622)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6656)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6139)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6698)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6092)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6470)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5497)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8221)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5715)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7542)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6238)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9642)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4050)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 4154)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4294)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4742)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5296)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5254)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5800)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6748)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5533)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4486)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5323)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4961)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4348)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6854)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4588)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8391)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7198)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8349)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7468)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7555)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6089)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9966)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant