Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 66: Bốn núi bao quanh

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13544)
Chương 66: Bốn núi bao quanh


Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

14.

Chương 66

BỐN NÚI BAO QUANH

Một buổi sáng tinh sương, đại đức Moggallana tìm đến Bụt, hai mắt ướt đẫm, Bụt hỏi duyên cớ. Đại đức thưa:

- Thế Tôn, trong giờ thiền tọa đầu hôm qua, con đã nghĩ đến mẹ của con, và con đã dùng định lực để quán chiếu về nỗi nhớ niềm thương của con đối với mẹ. Con biết là trong thời niên thiếu đã có đôi lần con làm cho mẹ con buồn, nhưng con cũng biết đó không phải là nguyên do của nỗi buồn thấm thía của con. Nỗi buồn thấm thía của con phát sinh từ ý nghĩ là con không làm được gì để giúp mẹ con lúc bà còn sống, và con cũng không làm được gì để giúp mẹ con sau khi bà đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, nghiệp chướng của mẹ con rất nặng. Hồi sinh tiền, bà đã từng tạo ra nhiều ác nghiệp. Con biết rằng bây giờ những ác nghiệp ấy vẫn còn theo đuổitiếp tục làm cho mẹ con khổ đau. Trong giờ thiền định con thấy hình ảnh này, con thấy con đi thăm mẹ con ở một nơi thật tối tăm, ẩm thấp. Mẹ con than đói, bà gầy ốm như một bóng ma. Con lấy cơm trong bình bát dâng lên, mẹ con bốc cơm ăn, nhưng khi mẹ con đưa cơm vào tới miệng thì cơm ấy biến thành than hồng, mẹ con không thể nuốt được, phải nhả ra. Thế Tôn, hình ảnh đó con không thể nào quên được. Con không biết làm cách gì để cho nghiệp chướng của mẹ con được tiêu trừ và thân cho tâm thân của mẹ con được nhẹ nhàng, siêu thoát.

Bụt hỏi:

- Hồi sinh tiền, mẹ của thầy đã tạo những nghiệp ác nào?

- Bạch Thế Tôn, hồi sinh tiền, mẹ con đã không chịu sống theo chánh mạng. Nghề nghiệp của bà buộc bà phải sát hại rất nhiều sinh mạng của các loài hữu tình. Mẹ con lại là người không biết biết tu theo chánh ngữ. Bà đã gây nhiều khổ đau cho kẻ khác vì những lời nói của bà. Bà bứng cây sống, trồng cây chết. Con không dám kể hết chi tiết về những ác nghiệp của bà để Thế Tôn nghe, nhưng quả thật mẹ con đã sống ngược lại với tất cả năm giới quý báuThế Tôn đã dạy. Thế Tôn, nếu con có thể chịu khổ đau thay thế để đổi nghiệp quả của mẹ con, thì con sẵn sàng chấp nhận. Xin Thế Tôn, đem lòng từ bi xót thương mẹ conchỉ bảo cho con.

Bụt nói:

- Moggallana, tôi rất cảm động về tấm lòng hiếu thảo của thầy đối với mẹ. Công ơn cha mẹ như trời như biển: làm con phải luôn luôn nhớ tới công ơn ấy, ngày cũng như đêm. Gặp thời không có Bụt và không có các bậc thánh hiền, phụng sự cha mẹ tức là phụng sự Bụt và các bậc thánh hiền. Moggallana, thầy đã cố gắng để chuyển hóa mẹ thầy khi bà còn sống, thầy lại còn lo lắng để chuyển nghiệp cho mẹ thầy khi bà đã chết, điều đó chứng tỏ thầy là một người rất có hiếu đối với cha mẹ. Tôi rất mừng vì điểm đó.

Moggallana! Điều căn bản nhất mà mình có thể làm để báo hiếu cha mẹ là sống một đời sống đẹp đẽ, hạnh phúcđức hạnh. Như vậy là vừa đền đáp được công ơn sinh dưỡng vừa đền đáp lại kỳ vọng của cha mẹ nơi con cái. Trường hợp của thầy là một trường hợp thành công. Đời sống của thầy là một đời sống có an lạc, có hạnh phúc, có đạo hạnh; đời sống của thầy là một đời sống gương mẫu, thầy đã và đang hóa độ được bao nhiêu người, giúp họ đi về con đường chánh. Nếu đem đời sốngcông đức ấy mà hồi hướngchú nguyện cho mẹ thì chắc chắn hành nghiệp của mẹ thầy sẽ được chuyển biết một cách đáng kể.

Moggallana! Tôi sẽ chỉ cho thầy một phương pháp mầu nhiệm và hữu hiệu để giúp mẹ. Đến ngày tự tứ mãn khóa an cư mùa mưa, thầy nên thỉnh cầu toàn thể đại chúng họp lực chú nguyện cho mẹ thầy. Nên biết trong đại chúng có nhiều vị khất sĩ đạo đứcđức hạnh rất lớn. Nếu thầy phối hợp đạo lựcđức hạnh của thầy với đạo lựcđức hạnh của tất cả các vị ấy thì sức chú nguyện sẽ hùng mạnh vô cùng và nhờ nhân duyên đó, nghiệp chướng của mẹ thầy sẽ tiêu tan và bà sẽ có cơ hội và đi vào con đường chánh pháp.

- Tôi nghĩ là trong đại chúng có thể cũng có những vị có tâm trạng như thầy, vì vậy ta nên tuyên bố điều này ra trong đại chúng. Thầy hãy bàn với thầy Sariputta, để từ nay cứ đến ngày tự tứ thì ta có thể tổ chức một lễ chú nguyện, chú nguyện để hộ niệm cho các bậc cha mẹ đã mất và cả cho những người làm cha mẹ còn sống. Như vậy cũng là để đồng thời giáo dục người trẻ về đạo hiếu đối với cha mẹtổ tiên.

Moggallana! Người đời thường chỉ biết tiếc thương cha mẹ khi cha mẹ đã qua đời. Trong ánh sáng của đạo tỉnh thức, có cha có mẹ là một hạnh phúc lớn. Cha mẹ là những nguồn vui lớn cho con cái. Con cái phải biết trân quý thời gian sống với cha mẹ, được thấy cha mẹ hàng ngày, được đem niềm vui hàng ngày cho cha mẹ.

Ngay trong khi cha mẹ con sống và sau khi cha mẹ quá vãng, những hành động từ ái cần được thể hiện để gây niềm vui cho cha mẹhồi hướng công đức cho cha mẹ. Giúp người nghèo khổ và bệnh tật, thăm viếngủy lạo những người cô đơn, phóng thích tù nhân và những loài vật sắp bị sát hại, chẩn tế, trồng cây ... đều là những hành động phát xuất từ tâm từ bi có thể chuyển đổi được tình trạng hiện tại và gây niềm vui cho cha mẹ. Trong ngày tự tứ của tăng đoàn khất sĩ, chúng ta nên khuyến khích mọi người làm những việc như thế.

Đại đức Moggallana vui mừng lạy ta Bụt.

Chiều hôm ấy, đi thiền hành tới cổng tu viện Trúc Lâm, Bụt thấy xa giá của vua Pasenadi cũng vừa dừng lại trước cổng. Vua đi thăm Bụt. Hai người còn đang đứng ở cổng tu viện để chuyện trò thì có bảy vị du sĩ phái Nigantha đi ngang qua. Họ là những người tu khổ hạnh, lõa hình, tóc và râu không cạo, móng tay móng chân để dài không cắt. Trông thấy họ, vua Pasenadi xin lỗi Bụt và đi ra chào đón các vị du sĩ. Vua lạy xuống cung kính trước bảy vị du sĩ, và nói:

- Thưa các vị cao đức, trẫm là Pasenadi, vua nước Kosala.

Vua lạy và nói ba lần như thế, rồi mời chào họ và trở về với Bụt. Đợi họ đi khuất, vua hỏi:

- Bạch Thế Tôn, theo Thế Tôn thì trong bảy vị du sĩ đó có vị nào chứng quả A la hán chưa? Học có vị nào đang đi trên con đường đến quả vị ấy?

Bụt đáp:

- Đại vương, ngài sống cuộc sống vương giả và thân cận với giới chính trị nhiều hơn giới đạo sĩ nên ngài khó mà biết được ai là người đã giải thoát và ai chưa giải thoát. Đại vưong, gặp gỡ đôi ba lần và nhìn vào bề ngoài của một vị đạo sĩ thì khó mà biết được họ có giác ngộ hay không. Chỉ khi nào ta sống bên họ và có thì giờ nhận xét họ ta mới biết được họ có giải thoát hay không có giải thoát. Đi lâu mới biết đường dài; thân cận lâu ngày với một người, sống vói người ấy trong những hoàn cảnh khó khăn, nghe người ấy nói năng đàm luận ... ta mới thấy được mức độ trí tuệ, đức hạnh và sự chứng đắc của người ấy.

Vua biểu đồng tình vời Bụt:

- Bạch Thế Tôn, con cũng thấy như thế. Mỗi khi con gửi các thám tử đi do thám tình hình các nơi, những người này thường phải hóa trang để cho người ta không nhận ra được họ. Con nhớ là khi những thám tử này về cung trình diện, chính con cũng không nhận ra được họ. Con tưởng họ là những người không quen. Chỉ khi nào họ lột bỏ những đồ hóa trang, đi tắm, rửa mặt và mặc áo quần của chính họ vào thì con mới nhận ra được họ. Thế Tôn! Thế Tôn nói rất đúng. Ta không thể nhận ra được đức hạnh, trí tuệ và sự chứng đắc của một người nếu ta không có được cơ hội để biết về người ấy một cách chín chắn.

Bụt mời vua đi bộ về phía tịnh thất của người.

Vào đến tịnh thất, Bụt bảo thầy Ananda bắc ghế trước sân mời vua ngồi. Sau khi an tọa, vua bạch với Bụt:

- Thế Tôn, con đã bảy mươi tuổi rồi. Con nghĩ là con phải để nhiều thì giờ hơn vào việc tu học của con, Con phải tập ngồi thiềnđi thiền hành nhiều hơn trước. Thế Tôn, công việc triều chính quá bận rộn, nhiều lúc ngồi nghe Bụt giảng mà con cũng ngủ gục. Con lấy làm xấu hổ quá. Bạch Thế Tôn, con lại có cái tật ăn nhiều. Con nhớ có một buổi trưa ăn no quá, tới chùa con buồn ngủ chi lạ. Con ra ngoài sân tu viện đi thiền hành cho bớt buồn ngủ mà cũng vẫn buồn ngủ như thường. Hôm đó con vừa đi vừa ngủ gục, đến nổi gặp Thế Tôn cho nên cũng không thấy, và con đã vấp vào Thế Tôn, Thế Tôn có nhớ việc này không?

Bụt cười:

- Tôi có nhớ, đại vương! Đại vương ăn ít thôi, thì thân tâm sẽ nhẹ nhàng, và công việc chính trị cũng như công phu tu tập cũng sẽ có phẩm chất hơn. Nếu muốn thành công trong việc này, đại vương nên nhờ hoàng hậu Malika hay công chúa Vajiri chăm sóc về thực phẩm hàng ngày cho đại vương, về phẩm cũng như về lượng.

Vua chắp tay lĩnh giáo. Bụt nói:

- Đại vương nên để thêm thì giờ mà lo về sức khỏe và sự tu tập của mình. Bây giờ tuổi đại vương đã cao; nếu không lo tu tập, thì đại vương không còn nhiều thì giờ nữa. Đại vương! Ví dụ có một người hộ vệ thân tín của đại vương từ phương Đông trở về báo cáo với đại vương là có một hòn núi vĩ đại cao gần bằng mặt trời đang tiến dần từ phương Đông tới; và trên đường đi trái núi ấy nghiến nát tất cả những sinh vật nào nó gặp dưới chân. Đại vương đang lo lắng thì một người thân tín của đại vương từ phương Tây về báo cáo rằng từ phương Tây cũng có một trái núi vĩ đại như thế đang tiến tới, rồi những người thân tín của đại vương từ phương Bắc và phương Nam cũng về báo cáo là có hai hòn núi vĩ đại từ các phương trời ấy đang từ từ tiến tới phía đại vương, ngọn núi nào cũng nghiến nát dưới chân mình tất cả những sinh vật trên đường đi.

Đại vương biết là bốn ngọn núi từ bốn phưong đang áp tới và mạng sống của đại vương sẽ không thể kéo dài. Đại vương không còn nhiều thì giờ. Vậy đại vương sẽ làm gì trong tình trạng ấy?

Vua ngẫm nghĩ rồi nhìn vào mặt Bụt:

- Bạch Thế Tôn, trẫm nghĩ trong trường hợp ấy thì chỉ có một việc đáng làm mà thôi. Đó là sống những ngày còn lại thật xứng đáng, thật trầm tĩnh, đúng theo chánh pháp.

Bụt khen:

- Hay lắm, đại vương! Tôi xin nói để đại vương biết: bốn ngọn núi ấy là bốn ngọn núi của sinh lão bệnh tử. Cái già và và cái chết là những ngọn núi vây hãm chúng ta và đang từ từ tiến tới.

Vua chắp tay:

- Bạch Thế Tôn, biết được cái già cái chết đang vây quanh và tiến tới, con nghĩ chỉ có một cách là đem những ngày tháng còn lại để sống theo chánh pháp, sống thật trầm tĩnh, làm tất cả những việc thiện nào có thể làm, và xây dựng cho các thế hệ tương lai.

Vua đứng dậy làm lễ Bụt và ra về.

Mùa mưa năm nay, các đạo sĩBà la môn đủ các giáo phái về Savatthi đông lắm. Các buổi thuyết giảng của họ được tổ chức khắp nơi, và dân chúng thủ đô thỉnh thoảng được mời tới dự những cuộc đàm luận giữa những vị đại diện của các giáo phái. Những chủ thuyết khác nhau có dịp được trình bày. Trong giới môn đệ của Bụt cũng có nhiều vị đi dự những cuộc đàm luận này. Họ về chùa kể cho Bụt và các thầy nghe những điều họ nghe và thấy. Họ nói không có vấn đề siêu hình nào mà các vị đạo sĩ lại không đặt ra, và vị nào cũng tự nhận thuyết của mình là đúng, thuyết của kẻ khác là sai. Ban đầu thì họ chỉ tranh luận nhẹ nhàng, nhưng rốt cuộc phần lớn đều nổi nóng và cuối cùng người ta bắt đầu nói nặng với nhau và lên án nhau bằng những lời lẽ thật cay độc.

Bụt kể cho môn đệ chuyện ngụ ngôn sau đây:

- Ngày xưa có một vua thật ngộ nghĩnh. Ông cho mời những người mù trong xứ đến, những người mù từ khi mới được sinh ra. Vua cho dắt tới một con voi. Vua bảo những người này sờ voi và cho biết con voi như thế nào. Có người sờ chân voi, nói voi giống cái cột nhà. Có người sờ đuôi voi, nói voi giống cái phất trần. Có người sờ tai voi, nói voi giống cái rổ. Có người sờ ngà voi, nói voi giống như một cái cọc. Có người sờ bụng voi, nói voi giống cái bồ chứa thóc. Có người sờ đầu voi, nói voi giống như cái lu nước. Ngồi lại với nhau, những người mù này không ai đồng ý với ai về hình thù của con voi. Họ cãi nhau kịch liệt. Ông vua thấy thế rất lấy làm thích thú.

Các vị, những gì quý vị thấy và nghe chỉ là một phần của sự thật. Nếu ta cho đó là toàn thể sự thật tức là ta bóp méo sự thật. Người tu học phải có tâm khiêm nhượng, biết rằng cái thấy cái hiểu của mình còn nhỏ bé, và mình cần phải nổ lực học hỏithực tập tinh tiến thêm mãi. Người tu học phải có tâm cởi mở, biết rằng nếu cố chấp vào tri kiến hiện tại, cho đó là chân lý tuyệt đối, thì mình sẽ bị kẹt và sẽ đánh mất cơ hội tiếp xúc với chân lý của thực tại mầu nhiệm. Khiêm nhượng và cởi mở là hai điều kiện thiết yếu của sự tiến thủ.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12809)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26658)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13062)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27041)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32883)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31682)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32597)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13034)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12153)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17508)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18750)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12584)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11787)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13139)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12226)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12508)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11644)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11998)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10619)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10935)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28344)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11180)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11373)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13606)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11043)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11442)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10903)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11192)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26367)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12400)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14891)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11069)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20349)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12366)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10781)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23935)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11866)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12308)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12847)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11060)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38747)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10552)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12210)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17720)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25084)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10563)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12059)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11333)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11596)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14748)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21446)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9913)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11272)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27390)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11189)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11849)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11014)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14318)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant