Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh thần giáng đản

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11523)
Tinh thần giáng đản


Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng. Sự thực ấy không chỉ xác định được nhân cách cho con người mà còn là chuẩn mực để nhận định nhân cách của thánh nhânphàm nhân. Một sự khác biệt chỉ nằm trong sát na của vọng niệm, bên mé bờ vô hình tướng của ngộ và mê, của giác và vọng, của chân và ngụy, của xả và chấp, và khoảng cách ấy là bao xa.

Trong lịch sử loài người có hơn một minh chứng hùng hồn về khả tính của con người có thể xả ly, có thể vượt qua, có thể quăng bỏ một cách dứt khoát để trở nên sáng lạn, chói lòa. Nhân cách ấy đã giành trọn cuộc đời mình rao giảng một nền giáo lý vô ngã, tạo tiền đề cho một nền triết học tôn giáo phi thường của phương Đông. Sự giác ngộ quán triệt về vô ngã ấy như cú nhảy thiện nghệ vượt hẳn qua bờ mé bên kia của dòng sanh tử khổ đau. Để mấy ngàn năm sau đồng vọng lời ca vang huyền thoại. Và vì thế, đã không biết tự bao giờ, nhân vật lịch sử ấy đã trở thành một nhân cách huyền thoại của con người như câu chuyện đản sanh.

Câu chuyện của tinh thần tâm linh phương Đông

Câu chuyện đản sanh bắt đầu từ chi tiết có thật của lịch sử, cách nay khoảng hai ngàn sáu trăm ba mươi lăm năm tại thành Kapilavatthu ở Ấn Độ (tức Nepal ngày nay), một buổi sáng tháng tư có một vị thái tử ra đời, bậc vương tôn ấy về sau đã làm nên huyền thoại phương Đông, và câu chuyện đản sanh được kể về nhân vật này sẽ sơ lược đại khái như vầy:

Nhận đến ngày lâm bồn đã đến, hoàng hậu Maya lên đường trở về quê nhà để hạ sanh đứa con đầu lòng như tập tục của xứ này. Khi Người và đoàn xa giá cung nữ tùy tùng đến vườn Lumbini thì Người bỗng nhiên chuyển dạ, một bậc bồ-tát phi phàm đã hạ sanh. Vừa lọt lòng mẹ, bồ-tát liền bước đi bảy bước trên bảy đóa hoa sen, đến bước thứ bảy, một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời với lời tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý). Khi ấy đại địa chấn động, trời mưa cam lộ cúng dường, thiên nữ rãi hoa, nhạc trời tự trỗi, muôn hoa trong vườn đua nhau nỡ rộ chào mừng một bậc thánh giáng trần…

Câu chuyện huyền thoại ấy đã chứa đựng một nền minh triết của phương Đông, gắn với sự ra đời của một nhân cách siêu việthoa sen, là con số bảy, là sự có mặt của chư thiên địa và các thánh thần, là một câu nói gây ra nhiều sự bàn cải cho những ai còn lấn cấn giữa tính biểu trưng của huyền thoại hay ngôn ngữ trừu tượngsự thật lịch sử.

Súc tích một nền minh triết

Hoa sen, đó là sự tinh khiết được ví von như phẩm hạnh thanh cao của nhân cách Người, từ trong đầm lầy sanh tử đã vươn dậy nở hoa, tỏa hương, sắc tinh khôi và hương thanh thoát. Trong truyền thống tâm linh của con người phương Đông, mà dẫn đầu là người Ấn Độ, hoa sen là biểu trưng thanh cao cho cốt cách con người, sự ví von này là cách tôn xưng cao nhất có thể để người ta bày tỏ tình cảm, niềm tôn kính đối với một nhân cách thánh nhân.

Sinh ra với vị trí vương tôn, lớn lên từ cung vàng điện ngọc, trưởng thành với tùy tùng hầu hạ, với vợ đẹp con ngoan,... sống trong sự sung túc hoàn mĩ nhất của trần gian như thế nhưng con người ấy đã luôn băn khoăn: đây không phải là hạnh phúc cứu cánh của kiếp người, dù ở vị trí quyền lực nhất, giàu có nhất, hoàn hảo nhất thì vẫn không thể nào tránh khỏi những phiền não căn bản của chúng sinh. Và rồi đến một ngày Người ấy rũ bỏ xuống đất tất cả để vào rừng tìm câu trả lời cho sanh tửtrở thành một kẻ hành khất thực thụ trong xóm làng.

Ngài đã trở thành Buddha, một bậc giác ngộ đã vượt qua khỏi sự chi phối từ sức mạnh nghiệp lực phiền não sanh tử của chúng sanh. Đã xả ly một cách dứt khoát những thứ mà con người luôn hướng đến để bị cột vào, bị mê hoặc, bị trở thành nô lệ. Trong những cám dỗ của cuộc đời này, bậc giác ngộ ấy đã được mở trói, đã sáng trong, thanh thoát như một đóa sen trong đầm lầy, trong sanh tử trầm luân.

Bên cạnh hình tượng hoa sen trong sự kiện đản sanh là bảy bước đi kỳ diệu của bậc thánh. Một số nhà Phật học đã từng lý giải, sao là bảy bước chân mà không phải một, hai, ba, bốn hay năm, sáu. Đây là con số bảy của tứ phương-tam thời hay con số vượt ngoài số sáu của sáu nẻo luân hồi sanh tử như nhân cách của một bậc giác ngộ? dẫu với sự lý giải nào cũng nằm trong sự ước đoán của người học về sau. Chi tiết huyền sử ấy là sự kết tinh từ một chuỗi dài lời truyền và cảm tình tôn giáo qua nhiều thế hệ, là sự phản ảnh trung thực nhất về tình cảm và lòng kính ngưỡng đức Thế Tôn của con người Đông phương cách chúng ta hơn hai ngàn năm về trước.

Giá trị chân thực của con người qua hình tượng đản sanh

Vừa lọt lòng mẹ bồ-tát đã bước trên bảy đóa hoa sendõng dạc cất lời tuyên bố “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Dĩ nhiên, bậc giác ngộ là không có chúng sanh nào sánh được cho dù đó là chúng sanh tối thắng trời thần, bởi tôn quý như thế nên trời mới mưa cam lộ, thiên nữ mới cúng hoa, địa thần mới chấn động. Nhưng sự tôn quý sao lại không được cho là đã nói ra khi bồ-tát còn ở cung trời đâu suất, ở cảnh trời quý báu ấy dù chỉ nói “ta là tôn quý nhất cõi trời” thì cũng đẳng cấp hơn bởi chúng sanh cảnh trời tất nhiên hơn hẳn nhân gian.

Bồ-tát xác nhận đến nhân gian, làm người để tu thành chánh giác, ắt hẳn nhân gianđặc tính ưu việt, làm trung tâm thuận tiện cho bước chuyển cuối cùng từ mê đến giác, từ vọng đến chân, từ khổ đến niết-bàn, là nơi hội đủ điều kiện căn bản để hai dòng nghiệp thiện ác của thánh phàm tiếp nhận nguồn năng lượng chiêu cảm.

Bởi xác định thân người ở nhân gian có thể tu thành chánh giác cho nên bồ-tát giáng trần. Bởi sự giác ngộ tột cùng vượt ra ngoài sanh tử là điều không thể so sánh được trong sự phân biệt đẳng cấp của các loài chúng sanh cho nên được cho là tôn quý. Bởi thân người được cha mẹ sanh ra này đây có thể cho một hứa hẹn rằng có một chặng đường sống➝tu học➝giác ngộ, cho nên chính “ta”- nơi thân người này là tôn quý.

Nguồn gốc của truyền thuyết “bảy bước xưng tôn” dường như được tìm thấy sớm nhất trong tạng kinh Trường A-hàm hay Trường Bộ tương đương, với bài kinhĐại Bản, ở đó đức Thế Tôn nói về nhân duyên ra đời, thành đạo… của bảy đức Phật từ trong quá khứ, và ngài cũng không ngoại lệ, bởi đó là “pháp thường của chư Phật”. Và nguyên văn của ý kinh này như sau: “aggo ‘ham asmi lokassa, jeṭṭho ‘ham asmi lokassa, seṭṭho ‘ham asmi lokassa, ayam antimā jāti, natthi dāni punabhavo” [Ta là đấng tối thượng của thế gian, là tối thắng của thế gian, là tối tôn của thế gian. Đây là sự sanh cuối cùng, không còn đời nào nữa.]

Sau gần hai ngàn sáu trăm năm, ý kinh ấy cho con người của thế kỷ chúng ta nhiều khả tính để đoán định. Trong đó có thể nói, ắt hẳn yếu tố này được thiết lập nên từ quan điểm hướng về sự giác ngộ, chỉ có sự giác ngộ (Buddha) mới là điều đáng quý nhất trong các loài chúng sanh, chỉ có sự giải thoát phiền não mới là cứu cánh nhất trong sự sống này. Và điều đáng quý đó đang bắt đầu bằng chính thân người này đây. Bởi trong nền giáo lý nhân bản của Phật đà, luôn nhấn mạnh vai trò tối ưu của loài người trong sáu đường sanh tử hay nói khác hơn, nền giáo lý đặt trọng tâm vào sự thực nghiệm của chính bản thân con người, và nên làm gì ngay khi ta có thể. Vì rằng, hiện tại này là yếu tố cho ta quyết định các vấn đề.

Triết học Phật giáo là sự chắt lọc kết tinh nền giáo lý sống, được thực nghiệm và cảm nhận một cách sâu sắc tùy bởi căn cơ của con người đương thời, sức mạnh của sự thực nghiệm tôn giáo ấy là động lực để những câu chuyện ngày càng lung linh hơn, huyền thoại hơn cho đến khi nó được dừng lại bằng nền văn minh chữ viết, đây cũng là yếu tố đầu tiên cho sự ra đời của nền văn học tiền đại thừađại thừa.

Với một tôn giáo được hình thành và phát triển trước thời văn minh chữ viết của loài người như thế, thì người học Phật sẽ tự biết mình nên có một thái độ nào để có ích cho bản thân. Và đến đây cho phép chúng ta có thể nhận xét: Phủ định tất cả để đẩy mình đến vực sâu của sự hoài nghi, hay chấp trước tất cả vào văn tự để quay lưng với sự thật tri thức hiện đại của con người, là thái độ dại dột từ cái nhìn chưa thấu đáo, chưa có đủ niềm tin quyết liệt với bồ-đề tâm, là điều không nên của kẻ cầu học Phật của hôm nay.

Đạo Phật của hai ngàn năm trăm năm sau, hay còn sau hơn bao nhiêu nghìn năm nữa, khi con người được xem là chạm đến tận cùng của nền khoa học, với nền giáo lý của sự thật thực nghiệm, tôn giáo ấy có khi được xem là một nền triết học, hay một thứ gì đó mà khoa học đã gặp gỡ và có thể chạm đến. Tuy nhiên, sự thật thì tôn giáo ấy có nhiều lãnh vực mà khoa học không thể bước vào, bởi những thứ thuộc về giá trị tinh thần tâm linh thì hoàn toàn thuộc về phạm trù khác. Và vì thế, những chi tiết huyền thoại về Phật đà, đã được lưu truyền bởi hàng đệ tử, bằng câu chuyện đản sanh với hoa sen, với bảy bước xưng tôn, với sự vui mừng của chư thánh thần trời đất ấy, là những giá trị tinh thần, hàm súc nền minh triết Đông phương, được viết nên từ tình cảm giáo đồ Phật giáo của Đông phương, kết tinh lại tất cả lòng thành và niềm tôn kính tin yêu của hai mươi lăm thế kỷ lịch đại giáo đồ đối với bậc giáo chủ, dù truyền thuyết mà không hề đứng bên lề của nhận thức hiện đại.

Tất nhiên, sự thần thoại hóa do tình cảm của tín đồ giành cho đấng giáo chủ là một mẫu số chung của vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, tình cảm đó được căn cứ từ đâu, phản ảnh được điều gì về nền tảng giáo lý của tôn giáo ấy, và nó có đem lại lợi ích cho con người hay không thì là một điều khác biệt. Nét khác biệt ấy cho thấy cái riêng của từng tôn giáo.

Đức Như Lai, kẻ đến đi như sự thật, không nhiễm trước những gì có được trong đời, không mong cầu sự ngưỡng vọng tôn bái. Bậc dũng sĩ mạnh mẽ nhất có thể chiến thắng được phiền não của sanh tử chúng sanh, người có khả năng quăng bỏ một cách dứt khoát cái tôi và cái của tôi trong tinh thần vô ngã tuyệt đối. Bậc vô thượng sỹ chân thật như thế mới có thể tạo nên sự đồng vọng tôn sùng của nhân loại suốt chặng đường xuyên lịch sử con người. Để từ phẩm chất ấy mà hàng đệ tử viết thành câu chuyện đản sanh như Phật giáo đồ chúng ta đang có hôm nay.

Khải Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11666)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11173)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11909)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10233)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29210)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11920)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11912)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10922)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19596)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7305)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11349)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35257)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12840)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12187)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17322)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11444)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22074)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11805)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15896)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12103)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14083)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12583)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13203)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13640)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19963)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14383)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13511)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12330)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11882)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34693)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13383)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13695)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31927)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13184)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13058)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13405)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13284)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18022)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14894)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15703)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14832)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15817)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20736)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21272)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35078)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27468)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43882)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37849)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15121)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15033)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12948)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12612)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15583)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27674)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14936)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11393)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53134)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16503)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13143)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20670)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12596)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15568)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15473)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14743)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15591)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13013)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11737)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12276)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12544)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13449)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12428)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24925)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11941)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12716)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11586)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13706)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14052)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12879)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12712)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 12974)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13884)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12963)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13588)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12421)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14414)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13276)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13733)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14598)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11830)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12697)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28217)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11758)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12624)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15027)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11969)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11751)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12827)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11952)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11505)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10265)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant