Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trở về

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9958)
Trở về

TRỞ VỀ

Thích Nhất Hạnh

BẠN CÓ NHỚ gì không về cái thuở còn nằm trong bụng mẹ? Chín tháng ở đó, cả một thời gian dài. Tôi thiết nghĩ nằm trong bụng mẹ, tất cả chúng ta ai cũng đã có dịp mỉm cười. Thế nhưng chúng ta cười gì vậy? Khi hạnh phúc chúng ta thường cười. Tôi đã thấy nhiều người, nhất là trẻ em, mỉm cười lúc ngủ.

Thời gian ở trong bụng mẹ quả thật tuyệt vời. Mình chẳng phải lo lắng đến chuyện ăn uống. Từng cơn nóng lạnh được che chở. Chuyện học hành, làm lụng cũng không đụng tới. Trong bụng mẹ thật an toàn biết mấy. Không phải lo lắng điều gì. Mà không lo là điều tuyệt nhất. Tôi nghĩ nhiều người vẫn còn tiếc nuối thời gian nằm trong bụng mẹ. Nhiều người có cảm giác rằng đã có một lần được sống trong một thiên đường yên ổn, diệu kỳ, và giờ đây đã đánh mất thiên đường này. Họ nghĩ chắc có một nơi đẹp đẽ, an lành như thế ở đâu đó bên ngoài, nơi ấy chẳng còn chi để lo sợ, và mong ước được trở lại chốn đó. Trong tiếng Việt, dạ con còn được gọi là “tử cung” có nghĩa là “cung điện của đứa con”. Thiên đường ngày xưa là ở trong bụng mẹ.

blankNằm trong bụng, mình được mẹ lo cho hết. Mẹ ăn, mẹ uống cho mình. Mẹ thở cho mình từng hơi thở vào ra. Tôi nghĩ có lẽ mẹ nằm mơ cả cho mình nữa. Tôi mường tượng chắc mình cũng mơ những gì mẹ đang mơ. Nếu mẹ cười chắc mình cũng cười. Và nếu trong giấc mơ gặp khốn đốn mẹ khóc, mình hẳn cũng khóc theo mẹ. Mình cười khóc theo từng giấc mơ lành, từng cơn ác mộng của mẹ, bởi vì mẹ và mình đâu phải là hai. Mình dính chặt với mẹ qua cuống nhau, hay sợi dây rốn. Qua dây rốn này mẹ đã cho mình thức ăn, nước uống, tất cả mọi thứ, kể cả lòng yêu thương của mẹ. Có lẽ khi có thai mình, mẹ đã chăm sóc thân thể mẹ kỹ càng hơn. Mẹ đi đứng nhẹ nhàng. Có lẽ mẹ đã bỏ uống rượu và hút thuốc. Một cách thể hiện tình yêu thương của mẹ thiết thực nhất. Mình chỉ mới trong bụng mẹ chưa được chào đời mà đã được dành cho biết bao là trìu mến.

Mẹ nuôi dưỡng mình cả trước khi mình ra đời, nhưng nhìn thật sâu thì thấy lúc đó mình cũng đang nuôi dưỡng mẹ mình. Nhờ có mình trong bụng mà mẹ tươi cười, yêu đời thêm. Ba cũng thế. Mình chưa làm được gì, thế mà riêng sự có mặt của mình cũng đã nuôi dưỡng ba mẹ rồi. Cuộc đời của ba mẹ dường như đổi khác từ ngày mẹ có thai mình. Có lẽ mẹ cũng nói chuyện với mình cả khi mình chưa chào đời. Và tôi tin chắc rằng lúc đó mình đã nghe được mẹ và đáp ứng lại mẹ. Có những lúc mẹ lơ là dường như quên đi sự có mặt của mình trong bụng. Lúc đó mình đạp một cái để nhắc mẹ. Cái đạp là tiếng chuông chánh niệm giúp mẹ nhớ ra và mẹ dỗ dành mình: “Cưng à, mẹ biết con mẹ đang có mặt trong đó, và mẹ hạnh phúc biết bao, con yêu ơi”. Đó là câu thần chú yêu thương thứ nhất.

Rồi đến ngày chào đời, ai đó cắt cuống nhau cho mình. Và có lẽ đó là lúc mình cất tiếng khóc đầu tiên trong đời. Bây giờ mình phải tự thở một mình. Bây giờ mình phải tập làm quen với mọi thứ ánh sáng chung quanh. Bây giờ lần đầu mình mới biết thế nào là đói. Ra ngoài rồi mà mình vẫn còn như trong bụng mẹ. Mẹ ôm hôn mình với hết cả tình thương. Và mình cũng bấu chặt mẹ. Mình cũng chưa sống thiếu mẹ được. Rồi mẹ cho mình bú. Mẹ chăm sóc ngày đêm. Dù cuống nhau giữa mẹ con không còn, mình vẫn còn được nối với mẹ bằng một sợi dây máu mủ thâm tình.

Khi trưởng thành, mình phải phấn đấu gay go với chính mình để tự thuyết phục rằng mình và mẹ là hai cá thể biệt lập. Nhưng sự thật không phải vậy. Mình là sự tiếp nối của cha mẹ mình. Khi thiền quán, tôi thấy cuống nhau vẫn còn nối tôi với mẹ. Khi quán chiếu sâu, tôi thấy được những sợi dây rốn vẫn nối tôi với vạn hữu trong đời. Mỗi sáng mai, mặt trời mọc cho ta ánh sáng và hơi ấm. Thiếu những thứ đó, ta không thể tồn tại.

Như thế là đã có cuống nhau nối mình với mặt trời. Một cuống nhau khác nối mình với những đám mây trên trời. Nếu không có mây, mình sẽ không có mưa và nước để uống. Không có mưa, mình sẽ không có sữa, trà, cà-phê, không có cà-rem, không có gì hết. Có một sợi dây rốn nối liền mình với dòng sông, một sợi dây khác nối mình với rừng cây. Nếu tiếp tục quán chiếu như vậy, mình sẽ thấy mình dính liền với mọi sự và mọi người trong vũ trụ này. Sự sống của mình tùy thuộc vào sự sống của tất cả mọi hiện hữu khác - không phải chỉ tùy vào mọi sinh vật mà vào tất cả cây cỏ, đất đá, không khí, nước và đất.

Giả thử mình gieo một hạt bắp và chừng một tuần sau hạt bắp nảy mầm và nhú lên đọt non. Khi cây bắp vươn cao, mình không còn nhận ra được đó là hạt bắp mình đã gieo ngày nào. Nhưng nếu nói rằng hạt bắp đã chết thì không đúng. Bằng đôi mắt của Bụt, mình sẽ thấy rằng hạt bắp vẫn còn sống nơi thân cây bắp. Thân bắp là sự tiếp nối của hạt bắp về hướng tương lai, và hạt bắp là sự tiếp nối của thân bắp về hướng quá khứ. Hai thứ ấy không phải là một, nhưng cũng không phải hoàn toàn khác biệt nhau. Mình và mẹ mình không phải là một người, nhưng không phải là hai người hoàn toàn khác biệt. Đó là một chân lý về tính tương thuộc, mọi vật nương vào nhau mà sống. Không ai có thể tồn tại biệt lập. Là mình, chúng ta đồng thời là tất cả những thứ khác. Để có mặt, để hiện hữu, chúng ta phải cùng nhau có mặt, cùng nhau hiện hữu. Đạo Bụt gọi đó là tương tức.

Trong bụng mẹ, thân ta không phải chịu nhiều căng thẳng, nên vẫn còn mềm mại, dẻo dai. Nhưng khi vừa mới chào đời, sự căng thẳng ập đến, có khi từ hơi thở đầu tiên. Để buông thư nhưng căng thẳng nơi thân, ta phải buông thư những căng thẳng nơi hơi thở. Nếu thân ta không bình an thì hơi thở ta cũng không được bình an. Khi chúng ta phát khởi được năng lượng của chánh niệm và ôm ấp được hơi thở thì phẩm chất của hơi thở vào ra của ta sẽ được cải thiện. Thở chánh niệm thì hơi thở trở nên êm dịu và sâu lắng hơn. Sự căng thẳng nơi hơi thở tan biến mất. Khi hơi thở đã nhẹ nhàng, mình có thể chăm sóc và làm lắng dịu hình hài. Bụt gọi đó là làm cho thân ta “an tịnh”.

Có một kinh Pali tên là Kayagatasati Sutta, tức "Kinh Niệm Thân”. Trong kinh này, Bụt dạy ta phép thực tập để buông thư từng bộ phận của cơ thể cũng như của toàn thân. Bụt dùng hình ảnh của một bác nông dân leo lên kho và đem xuống một bao đựng đủ các loại hạt. Bác nông dân mở đầu bao và để các loại hạt tuôn ra. Với đôi mắt còn rất tinh tường, bác có khả năng phân biệt được các loại hạt và thấy được đây là đậy xanh, đây là đậu ngự, v.v... Bụt khuyên ta hãy học cách chú tâm như bác nông dân nọ.

Trước hết, bạn hãy nằm trong tư thế thoải mái, chú ý đến toàn thân, sau đó tuần tự xem xét từng bộ phận một của cơ thể. Bắt đầu từ đầu hay tóc trên đầu lần lượt xuống đến các ngón chân. Bạn có thể nói: “Thở vào, tôi đang ý thức về bộ óc của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với bộ óc của tôi”. Tiếp tục như thế cho đến khi nhận diện được hết các bộ phận trong cơ thể. Như người nông dân đang xem xét các hạt đậu, bạn hãy chiếu soi từng cơ phần cơ thể mình, không phải bằng quang tuyến X, mà bằng ánh sáng của chánh niệm. Chỉ cần mười lăm phút, từ từ bạn có thể soi chiếu toàn thân với năng lượng của chánh niệm.

Khi một bộ phận trong cơ thể được nhận diện và ôm ấp bởi năng lượng chánh niệm, tỉnh giác, bộ phận ấy dần dần thư giãn ra, và sự căng thẳng được lắng dịu. Thế nên mỉm cười là cách tốt nhất để giúp cho thân thư giãn. Nụ cười thuở ban sơ trong bụng mẹ hẳn là những nụ cười hết sức thoải mái. Trên mặt ta có hàng trăm bắp thịt, mỗi lần giận hay sợ, những bắp thịt này bị căng thẳng rất nhiều. Nhưng nếu ta biết thở; thở vào để nhận diện các bắp thịt trên mặt, thở ra mỉm cười với chúng, ta có thể giúp chúng thư giãn rất nhiều. Với một hơi thở vào, và một hơi thở ra, khuôn mặt ta đã có thể được biến đổi. Mỗi nụ cười có thể đem đến một phép lạ.

Nếu trong lúc đang soi chiếu, có một bộ phận nào đó của cơ thể bị bệnh hay đau nhức, ta hãy tập trung tâm ý lâu hơn ở đó. Ta có khuynh hướng vội vàng đi phớt qua những chỗ đau. Nhưng vội vàng như thế chỉ làm gia tăng căng thẳng chứ không giúp làm cho những nơi ấy được êm dịu và chữa trị. Nếu ta biết dành thì giờ cho những chỗ đau, ôm ấp những nơi ấy với năng lượng chánh niệm, mỉm cười với chỗ đau, thì sự căng thẳng sẽ giảm được nhiều. Làm được như thế, chỗ đau sẽ rất chóng lành.

Có thể thân mình đang đau nhức lắm. Chánh niệm giúp mình nhận diện được đây chỉ là cái đau nhức của thân. Bụt có dạy về mũi tên thứ hai qua câu chuyện một người bị tên bắn rất đau. Giả sử có một mũi tên thứ hai lại bắn đúng vào ngay chỗ đó. Sự đau đớn hẳn phải tăng lên gấp cả trăm lần, vì người này đã bị thương sẵn. Đã bị thương rồi mà còn lo lắng, sợ hãi, cường điệu hóa, tức giận về hành động gây ra thương tích, thì có khác nào rước thêm một mũi tên thứ hai khiến cho vết thương càng thêm trầm trọng. Vậy nếu bạn đã bị trúng tên rồi, hãy thực tập chánh niệm để cho mũi tên của lo lắng, sợ hãi... không đến cắm trúng vào nơi thương tích.

Trong “Kinh Niệm Thân”, Bụt khuyên ta hãy ý thức rõ về sự có mặt của tứ đại nơi thân ta. Trong bụng mẹ, bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa này hoàn toàn quân bình. Bà mẹ điều hòa cho cái thai, cung cấp dưỡng khí, thức ăn trong khi đứa con nằm nghỉ ngơi trong dung dịch nước. Khi được sinh ra, nếu có sự điều hòa trong bốn đại thì sức khỏe của mình rất tốt. Nhưng thường thì các yếu tố không được quân bình; chúng ta lạnh không sao ấm nổi, hoặc không thở được cho tròn. Bằng hơi thở chánh niệm, ta có thể tái lập lại quân bình một cách tự nhiên giữa các yếu tố này một cách tự nhiên

Bụt cũng có dạy ta hãy ý thức rõ về tư thế và hoạt động của thân. Trong khi ngồi thiền, cái đầu tiên phải ý thức rõ là mình đang ở trong tư thế ngồi thiền. Rồi sau đó ta có thể ngồi cách nào cho được an tịnh, vững chãi và khỏe khoắn. Trong mỗi phút giây, ta có thể nhận diện được tư thế của thân, dù đang ngồi, đi, đứng hay nằm. Ta có thể ý thức rõ về các hoạt động của ta, như đang đứng lên, cúi xuống hay đang mặc áo. Ý thức tỉnh giác mang ta trở về với chính mình. Khi chúng ta hoàn toànchánh niệm về thân, và sống trọn vẹn bây giờ và ở đây thì chúng ta đang ở trong quê hương đích thực của mình.

BẠN CÓ BIẾT bạn có một quê hương đích thực? Câu hỏi này đặt ra cho tất cả mọi người. Ngay cả khi bạn có cảm giác mình không thuộc vào một đất nước, một dân tộc nào, không thuộc một di sản văn hóa nào, một chủng tộc nào, bạn vẫn có một quê hương đích thực để quay về. Khi bạn ở trong bụng mẹ, mình cảm thấy yên ổn. Có lúc mình mơ ước trở về chốn ấy để được an lành, bảo bọc. Nhưng giờ đây, chính trong thân thể này, mình có thể quay về.

Quê hương đích thực của mình là nơi này và ở đây. Nó không bị giới hạn bởi thời gian, không gian, quốc tịch hay chủng tộc. Quê hương đích thực của mình không phải là một ý niệm trừu tượng. Đó là một cái gì bạn có thể tiếp xúc và sống với nó từng giây từng phút. Với niệm và định, các nguồn năng lượng của Bụt, bạn có thể nhận ra quê hương đích thực trong sự an trú thân tâm trong phút giây hiện tại. Không ai có thể lấy đi quê hương đích thực của mình. Người ta có thể xâm lăng chiếm cứ đất nước của mình, thậm chí nhốt mình trong tù ngục, nhưng người ta không thể nào lấy đi quê hương đích thực và sự tự do của mình.

Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình, và có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Đây là con đường Bụt đã chỉ bày cho chúng ta. Khi thở vào, ta gom hết thân tâm về một mối; ta trở thành một. Đã được trang bị với năng lượng của niệm và định rồi, ta có thể cất bước đi. Ta có được tuệ giác đây là quê hương đích thực của mình - ta thực sự có mặt trong sự sống, ta thực sự tiếp xúc với sự sống như một thực tại. Quê hương đích thực này là một thực tại chắc nịch, mình có thể sờ mó được bằng chân, bằng tay và cả bằng tâm ý.

Mình cần phải tiếp xúc cho được quê hương đích thực của mình và nhận ra quê hương đích thực của mình trong cái bây giờ và ở đây; đó là điều thiết yếu cơ bản. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Bằng hơi thở ý thức và bằng bước chân chánh niệm, mình có thể đưa tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, tâm và thân thường đi theo hai hướng khác biệt. Mình nằm trong trạng thái xao lãng, ý một đàng thân một nẻo. Thân đang mặc áo thì tâm bận rộn chuyện quá khứ, chuyện tương lai. Thế nhưng giữa tâm và thân có một gạch nối: đó là hơi thở. Mình chỉ cần quay về với hơi thở, thở cho thật chánh niệm thì chẳng mấy chốc thân và tâm có thể hợp nhất. Khi thở vào, mình không nghĩ gì hết; mình chỉ chú tâm vào hơi thở vào. Tập trung tâm ý, đầu tư một trăm phần trăm thân tâm vào hơi thở vào. Hơi thở với mình là một. Sự tập trung trên hơi thở vào này là một định lực sẽ đưa thân tâm về lại với nhau trong khoảnh khắc. Và bỗng nhiên ta thấy mình đang có mặt tròn đầy, sinh động. Không còn nỗi khát khao được quay về nằm trong bụng mẹ, quay về thiên đường tuyệt hảo. Ta đã về rồi trên quê hương đích thực của mình.

(Bài tập Thiền buông thư, do Thiền sư Thích Nhất Hạnh hướng dẫn để giúp làm thư giãn thân tâm. Thật sự có mặt, thật sự tỉnh giác, ta thấy mình đã trở về. Bài này được dịch từ tiếng Anh trong tờ Shambhala Sun, March 28, 2006)

Thích Nhất Hạnh

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11675)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11179)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11912)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10236)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29216)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11926)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11915)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10926)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19598)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7312)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11351)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35262)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12841)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12193)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17330)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11446)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22080)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11807)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15907)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12103)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14085)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12591)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13211)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13644)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19967)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14390)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13518)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12333)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11884)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34705)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13383)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13696)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31936)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13188)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13060)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13414)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13297)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18026)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14900)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15706)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14841)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15820)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20747)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21280)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35096)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27481)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43893)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37858)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15124)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15042)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12955)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12622)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15591)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27680)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14948)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11395)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53146)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16508)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13145)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20684)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12602)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15572)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15480)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14748)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15595)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13019)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11744)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12281)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12551)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13454)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12436)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24940)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11947)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12722)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11591)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13708)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14078)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12886)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12717)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13000)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13892)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12970)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13594)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12428)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14420)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13279)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13736)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14605)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11846)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12706)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28266)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11776)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12635)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15031)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11980)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11756)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12833)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11955)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11508)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10268)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant