Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thi Nhân Và Thiền Nhân

19 Tháng Giêng 201804:26(Xem: 8101)
Thi Nhân Và Thiền Nhân
Thi Nhân Và Thiền Nhân 

Nhụy Nguyên


Thi Nhân Và Thiền Nhân

Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng. Còn thơ thiền chính là lúc kẻ phàm phu nhón tay vốc được linh tự nơi chân như khi vọng tưởng bỗng nhiên chừng lặng.

Daisetz Teitaro Suzuki – người cố giải mã công án trong 3 tập Thiền luận nói rằng “Thông thường thiền sư cũng là thi sĩ”. Theo ông, “văn học Thiền hưng khởi từ thời Huệ Năng (638 – 713) và nay còn giữ đủ, vẫn đáng cho các nhà thông thái và người tìm chân lí bỏ công nghiên cứu”. Có khoảng 1.750 công án mà Thiền giả thường tham cứu như một hấp hực của hậu nhân học Phật. Công án thuộc hàng khó giải nhất có nội dung: “Ý chỉ của Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn sang Tàu là gì?” Riêng luận về cuộc Đông du của Tổ này, Suzuki đã dẫn ra nhiều lời giải của các thiền sư dưới dạng gần như thơ, ví như hai câu của Đại Đồng Tế đậm đầy thi hứng:

Ta nghe gió rì rào qua khóm
Biết bao ngàn ngọn trúc đong đưa.

Ở Nhật, nhiều thiền sư sáng tác thơ haiku. Thơ haiku là sản phẩm của tâm thiền, là thơ thiền đúng nghĩa. Suzuki thử dẫn bài thơ của Basho: “Một vũng lầy hiu hắt/ Một con ếch nhảy vào/ Và tiếng nước; ôi chao!”; và luận: “Đấy là cái tiếng thức tỉnh đạo lý của Phật giáo Thiền tông. Kinh nghiệm tự nó không thể tỏ bày bằng cách khác, thế nên bài thơ hài cú chỉ mô tả cơ duyên, không tâm tình, không biện giải”. Suzuki nhận xét chuẩn xác hồn cốt của thể loại haiku; đáng lưu ý là mấy chữ “không tâm tình, không biện giải”. Tuy nhiên ở bài thơ này, có thể do người dịch nên nó đã rơi vào “biện giải”. “Ôi chao!” là một dạng thán từ, tiếng reo, một cảm xúc ứ trào, thì chính “tâm tình”. Phật thuyết Kinh Viên Dung Thuần Khiết: “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn”.

Một bài thơ khác:

Ngày ngày trên lá sen
Giọt sương rơi xuống
Nát tan hình hài

Ở đây tuyệt nhiên vắng bóng tâm tình và biện giải, nghĩa là hoàn toàn vắng cái “ngã”, cái “tôi” tác giả, chỉ có hình ảnh những giọt sương “nát tan hình hài” khi gieo xuống lá sen, trong sự cô đơn và nhẫn nhịn tuyệt vời! Hình ảnh cứ đeo bám, ám ảnh người đọc, nó khơi lòng từ bi, nó “mắc nợ” vào người đọc. Chính đó là tâm trạng của thể haiku; hay nói ngược lại, với bậc thoát lụy trần, tâm thanh tịnh mới gửi được cái vi diệu không sắc vào thể thơ kiệm lời bậc nhất này.

Có một câu chuyện thiền tường minh mối tương giao giữa thơ thiền và thiền thơ. Tiền thân của Tô Đông Pha vốn là Giới Diễn thiền sư, tu đến độ có thể tự tịch. Một hôm cùng với sư huynh Quang Huệ ngồi thiền; giữa thời, Giới Diễn bỗng khởi niệm ái sắc. Lúc xuất thiền sư huynh mới hỏi xéo “lúc nãy đệ nghĩ gì vậy”? Biết sư huynh đi guốc trong bụng, hổ thẹn quá Giới Diễn nhắm mắt tịch luôn. Quang Huệ tự vấn: “Bạn ta trong khi thiền định có niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch… lỗi ấy một phần do ở nơi ta”. Thế nên Quang Huệ cũng tịch mà đuổi theo hóa độ. Tô Đông Phahóa thân của sư Giới Diễn, sau này ông là nhà thơ trứ danh đời Tống. Cư sĩ Tô Đông Pha kết thân với nhiều nhà sư, trong đó có sư huynh của mình ở kiếp trướcthiền sư Phật Ấn. Một hôm để chứng tỏ công phu tu tập, ông làm một bài thơ tứ tuyệt; câu luận: Bát phong xuy bất động(“Tám gió” tung hoành không lay động), ý nói tám ngọn gió thế gian không thể lay động được tâm ông. Tấm tắc ngâm ngợi suốt ngày, rồi họ Tô gửi lên chùa Kim Sơn cho thiền sư Phật Ấn. Sư xem xong phê dưới “đồ đánh rắm“, nhờ tiểu đồng mang trả lại. Tô Đông Pha thấp thỏm đợi chờ lời khen, ai dè…, liền nổi giận chèo thuyền bạt gió qua sông. Mới bước đến cổng chùa ông thấy dòng chữ treo sẵn: “Tám ngọn gió không lay chuyển được mi/ [Thế nhưng] một cái đánh rắm cũng đủ thổi mi sang đến bờ bên này”.

Mới hay tâm còn ngã chấp tiểu kiến, dẫu vi tế, thơ vắt ra không thể là thơ thiền, dẫu mỗi mỗi chữ đều khoác áo thiền. Đánh bóng chữ dán mác thơ thiền, đâu hay thơ thiền không dễ sinh từ trí mà chảy từ suối tâm. Cũng như nếu đem trí để soi Đạo chẳng những không thấy trời đêm ngàn sao mà dưới mặt nước (tâm) động kia vầng trăng cũng lấp lóa mờ nhòa. Xưa, sư Trí Bảo tự thấy mình dốt Đạo đã rời chùa tìm lối vượt thoát sanh tử. Cơ duyên gặp được thiền sư Đạo Huệ khai ngộ liền thốt lên chứng đạo ca:

Không nhờ gió cuốn mây trôi sạch
Đâu thấy trời xanh muôn dặm thu.

Khi thuyết pháp, Phật, Bồ tátthiên nhân thường diễn ý thành kệ. Xuất khẩu thành kệ. Kệ ấy, ở mức độ mờ/nhòa nghĩa của ngôn ngữ, cũng xem là thơ. Bài Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông, theo tinh thần “thiền đạo”, nó là kệ nhưng bây giờ nghiễm nhiên thành một bài thơ. Kinh Thi có ba trăm bài; Bộ Hoa Nghiêm kinh nguyên khởi có hơn một trăm ngàn câu kệ; Trường Bộ Kinh được Giới lạc Mai Lạc Hồng chuyển thể thơ 3 tập với 1500 trang theo thể song thất lục bát; Cuốn luận về Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita Çastra) của Bồ tát Long Thọ (tổ Thiền thứ 14 của Ấn Độ, cũng là vị tổ trong Tịnh độ tông) in ra làm 3 bản; trong đó con số ước lượng, một bản gồm hàng trăm ngàn câu kệ; Kinh Pháp Cú nhắc người đời: “Tụng trăm câu kệ vô nghĩa/ Chẳng bằng một câu Pháp cú”. Kinh này cũng được tác giả Tịnh Minh dịch thành Thi kệ pháp cú kinh. Thử tụng câu 85:

Xem trong đám nhân quần
Ít người đến bờ kia
Còn bao nhiêu người khác
Quanh quẩn tại bờ này

Nghe qua có vẻ bình dân, song ai bước vào rừng kinh điển mới thấu lý bờ này, bờ kia, bao nhiêu người, quanh quẩn… Người sáng tạo thơ thiền thường phải khắc khắc nghiền ngẫm, vật lộn cùng chữ nghĩa. Luôn luôn trong tình trạng “nghi án”; và lạ thay, lúc người ấy thả lỏng mình trở về trạng thái vô nghiệm thì thơ thiền phát lộ. Có một đệ tử của ngài Qui Sơn Linh HựuLinh Vân, loanh quanh bên đời mãi vẫn đường đạo mịt mù, một lần chợt thấy hoa đào mà ngộ; liền làm thơ: “Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu/ Trực chí như kim bất cảnh nghi”. Hoặc như tổ Hoàng Bá từng viết bài kệ với hai câu kết:

Không chịu trời lạnh thấu xương
Hương thơm hoa mai sao tỏa!

Thiền sư Hư Vân thuyết về thành quả hành trì của người tu đã có nhắc: “Hoa mai nở bông vào mùa đông lạnh giá chớ không nở trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người”.

Thiền quan sách tấn chép về Mông Sơn Đức Dị (thuộc dòng Thiền của Ngũ Tổ Sơn Pháp Diễn) đã trải qua quá trình ngộ đạo hết sức gian nan. Ông ôm nghi tình chữ  hàng chục năm không khai tỏ, có đến hai năm ròng chỉ tu ngồi. Thỉnh giáo biết bao cao nhân, một lần gặp thầy Kỉnh, “thầy hỏi: “Ai đến đây?” Đáp: “Chẳng phải ta chẳng phải người”. Thầy bảo: “Chẳng phải ta chẳng phải người, thế là cái gì?” Đáp: “Đói thì ăn mệt thì ngủ”.

Đây là tinh thần thiền đạo của những bậc đã hòa vào cảnh giới an lạc tự tại. Chúng ta nhớ đến Cư trần lạc đạo của Phật hoàng. Ý này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong cuộc hội thoại của gia đình cư sĩ cùng chứng quả Bàng Uẩn. Chồng: “Khó! Khó! Khó! Đem hạt mè để trên đỉnh cây thật khó”; Vợ: “Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ sư trên trăm đầu ngọn cỏ”. Con gái Linh Chiếu: “Không khó cũng không dễ. Đói thì ăn. Mệt ngủ liền”. Hoặc như với Tế Công Hòa thượng: “Người bảo Ngài điên, Ngài chẳng điên/ Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền”. Trần Nhân Tông thấm đẫm diệu lý “tùy duyên” từ Thiền tông: Người tu đạo chân chính là “sống với mọi cơ duyên của cuộc sống trần gian này. Buổi sáng, y lặng lẽ thức dậy, vận y phục và ra ngoài làm việc. Khi muốn đi dạo, y liền đi dạo, khi muốn ngồi, y liền ngồi. Y không làm Phật, không nghĩ tưởng xa vời. Sao lại có thể thế? Cổ nhân nói, nếu bạn chuyên tâm tinh tấn cần cầu Phật quả, Phật của bạn thực tình là căn nguyên của luân hồi” (Tổ Lâm Tế). Lý này khiến rất nhiều người đời sau tưởng dễ nhảy vào, buông thả sống, khiến thân còn sống mà tâm đã bị đọa đày trong tầng tâm linh ngột ngạt, mờ mịt, bán rẻ tương lai tiêu xài vào cơn mộng lợi danh siêu thoát. Đạt đến tùy duyên là Nhìn thấu – Buông xảTự tạiTùy duyên; nghĩa là hết thảy vật tài, thân quyến cho đến vọng tưởng, chấp ngã mê lầm đều không dính mắc. Cái lý này với đời chừng như ngược, với đạo là xuôi. Xuôi theo đạo ấy mới là việc khó, nhân thế mấy ai!

Mãn Giác thiền sư cũng là người sống kỹ trong Đạo và học kỹ ngón thiền của các Tổ. Bài thơ nổi tiếng của ông, hai câu đầu: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai” (Xuân đi trăm hoa rụng/ Xuân đến trăm hoa nở), ta nhớ đến Sử Quảng Phúc Đam Chương trả lời một thiền tăng tham vấn về tâm pháp của Đạt Ma: “Xuân đến, cây cối trổ hoa” (Xuân lai hoa tự phát); “Thu đến, lá lay rơi rụng” (Thu chí diệp tiên điêu). Và hai câu sau: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một cành mai”, cũng là trên tinh thần lời Phật (thuyết kệ trong kinh Lăng Nghiêm): “Vi vi, thì không sinh, không diệt – Chẳng thật hư hoa đốm hư không”. Hoa nở hoa tàn ấy là “hoa đốm hư không”, do vọng tưởng hư diệu tạo thành, thực tế nhành mai là sự bất diệt của vạn pháp, là tự tánh trọn đủ hạt giống trong khiết; mai rồi lại nở vào những xuân sau.

Đức Thích Ca bảo “chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”. Kinh điển chính là Phật. Người Tu mức cao sẽ thấy những câu kinh ấy vốn sẵn nơi chân tâm. Bậc triệt ngộ thì cả Đại tạng kinh cũng phơi ra như báu vật bao nhiêu kiếp vùi trong vọng tưởng chấp trước. Kinh Lăng Nghiêm: “Nếu chuyển được vật, tức đồng Như Lai”. Tu lại để tạp niệm làm chủ tức vật chuyển mình, vật lôi kéo, giật dây thành rối. Chân như tức tâm chuyển cảnh. Lúc đó muôn hoa nước trời cùng vươn nở chào mừng nói chi vạn vật nhân gian. Mối tương ưng giữa Phật và chúng sanh, là chân tâm. Thủ kiến dễ khiến người đời “giương án” cho những thiền sư làm thơ (và pháp sư thuyết pháp) – điều mà xưa nay trong giới chân tu chưa hề bỏ ra nửa lời. Thiền nhân hoát ngộ đề thơ chính là thi nhân, còn thi nhân một phen lạc thăng hoa tiết ra thơ thiền cũng chưa thể gọi họ là thiền nhân được; dẫu Thơ và Thiền muốn viên mãn phải đánh đổi danh lợi giữ tâm ý sáng trưng như kẻ phong lưu bước trên băng mỏng vậy.

Nhụy Nguyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11662)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11172)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11907)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10231)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29208)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11912)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11911)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10913)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19596)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7305)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11349)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35254)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12831)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12185)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17317)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11442)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22073)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11801)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15896)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12100)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14080)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12581)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13199)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13634)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19961)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14382)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13507)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12327)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11882)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34689)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13383)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13691)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13178)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13055)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13401)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13281)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18018)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14886)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15696)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14830)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15815)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20732)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21266)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35069)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27456)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43878)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37848)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15121)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15026)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12948)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12612)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15580)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27671)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14934)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11387)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53128)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16499)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13140)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20668)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12590)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15567)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15471)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14743)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15591)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13011)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11736)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12265)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12543)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13445)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12426)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24924)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11937)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12713)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11585)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13705)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14045)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12876)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12711)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 12973)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13881)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12961)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13586)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12419)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14404)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13274)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13732)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14597)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11828)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12689)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28217)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11756)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12622)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15019)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11956)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11742)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12822)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11945)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11501)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10255)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant