Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Trợ Niệm Của Đức Phật

24 Tháng Sáu 201514:16(Xem: 5721)
Pháp Trợ Niệm Của Đức Phật

PHÁP TRỢ NIỆM CỦA ĐỨC PHẬT

Diệu Thể

Pháp Trợ Niệm Của Đức Phật

Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung

Điều này khẳng định rằng, trợ niệm hay hộ niệm không phải là pháp hành mới mẻ mà có từ thời Thế Tôn còn tại thế. Tìm hiểu về pháp trợ niệm của Đức Phật sẽ giúp chúng ta thấy rõ rằng Ngài rất chú trọng đến việc trợ niệm cho người sắp lâm chung hơn là việc hộ niệm sau khi chết, một pháp hành rất phổ biến hiện nay.

Kinh Tương ưng bộ III ghi, có lần một người già bệnh tên là Nakulapità thỉnh cầu Đức Phật như sau: “Kính xin Thế Tôn làm cho thân tâm con được an ổn, nhẹ nhàng. Đức Phật đã dạy người ấy rằng: Này gia chủ, sự thật là thân ông già yếu và bị biến hoại tàn tạ. Bất kỳ ai mang tấm thân này mà cho là không bệnh dù chỉ trong giây lát, người đó thật si mê! Vì thế cho nên, ông cần phải học và thực tập như sau: Dù thân tôi bị bệnh nhưng tâm tôi không bị bệnh”.

Khi đối mặt với nỗi đau bệnh tật hoặc cái chết, trong tâm lý của hầu hết mọi người có lẽ ai cũng mong muốn Đức Phật làm một phép lạ hay ban cho mình một sức mạnh diệu kỳ để giúp mình chiến thắng nỗi đau, vượt qua bệnh tật. Đó là tâm lý thường tình, cũng như người gia chủ Nakulapità kia, cầu xin Đức Phật giúp cho thân tâm ông được nhẹ nhàng, an ổn.

Nhưng theo Đức Phật, khi mang tấm thân tứ đại giả hợp này mà mong không bệnh tật là một thái độ si mê. Bản chất của thân này là duyên sinh nên vô thường, biến hoại; mong muốn nó bền chắc, tốt đẹp, thường còn, không biến hoại để mãi mãi an vui là điều không tưởng. Đức Phật không bao giờ làm việc gì vô ích chỉ vì hư tưởng, chẳng hạn như ban phép màu để vượt qua bệnh tật hay lẩn tránh cái chết. Nếu có biện pháp nào giúp người bệnh vượt qua nỗi đau bệnh tật thì biện pháp đó phải được thực hiện bởi chính người bệnh. Bằng như Đức Phật ban cho họ phép màu để họ được như nguyện (thân tâm an ổn), thì sau căn bệnh đó, sau nỗi đau đó còn biết bao căn bệnh khác, nỗi đau khác vốn tiềm ẩn trong tấm thân tứ đại giả hợp, họ sẽ phải đối mặt như thế nào? Chắc chắn là không có phép màu nào có thể khiến cho họ lành lặn, an ổn mãi mãi, bởi đặc  tính của mọi sự vật hiện tượngvô thường, biến hoại.

Điều quan trọng là Đức Phật dạy chúng ta phải đối mặt với những gì xảy đến với chúng ta, trong đó có bệnh tật. Phải thấy rõ thực tế và nhìn sâu vào thực tướng, vào bản chất của nó. Hãy nhìn thật sâu, thật kỹ vào những hiện tượng đó, quán chiếusinh khởihoại diệt như thế nào. Khi quán chiếu chúng ta chỉ cần thấy chúng xuất hiện, biến chuyển và mất đi, chúng ta không đồng nhất mình với chúng, chỉ thấy có nỗi đau khổ chứ không có người bị đau khổ, có cảm thọ chứ không có người nhận cảm thọ, không thấy cảm thọ đó là mình hoặc của mình. Nhờ năng lực chánh niệm tập trung quán chiếu, chúng ta sẽ thành tựu được tuệ giác và có được trạng thái khinh an, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các cảm thọ, không còn bị lệ thuộc vào tấm thân bệnh hoạn nữa. Hãy thực tập như lời Đức Phật dạy: “Dù thân tôi bị bệnh, nhưng tâm tôi không bị bệnh”.

Đức Phật rất xem trọng việc thực tập giáo pháp ngay cả trong thời khắc bệnh hoạn hoặc sắp lâm chung, bởi đó có thể là cơ hội để người đó sinh khởi tuệ giác, chứng ngộ chân lý. Điều này có ý nghĩagiá trị gấp trăm ngàn lần sự tạm thời chấm dứt các nỗi đau nơi thân xác mà không nhổ tận gốc rễ của chúng.

Đức Phật thường dạy người bệnh quán chiếu về những gì mà họ đang trải qua, cụ thể là những gì đang diễn ra nơi thân thể, các giác quan, sự sinh khởibiến chuyển của các cảm thọ, để từ sự quán chiếu sâu sắc đó thành tựu chánh niệm, tuệ giác.

Kinh Trung bộ còn ghi lại, lúc trưởng giả Cấp Cô Độc, một vị đại thí chủ của Đức Phật lâm trọng bệnh và sắp lìa trần, Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả A-nan-đà đã đến thăm ông. Trưởng giả Cấp Cô Độc cho biết thân thể ông đang rất đau đớn, dường như tình trạng bệnh đến mức tồi tệ, Tôn giả Xá-lợi-phất đã khuyên ông nên thực tập như sau: “Tôi không bám víu vào mắt; tâm thức tôi không lệ thuộc vào mắt. Tôi không bám víu vào tai; tâm thức tôi không lệ thuộc vào tai… Tôi không bám víu vào thân; tâm thức tôi không lệ thuộc vào thân…” (Tôn giả Xá-lợi-phất đã dạy ông Cấp Cô Độc không để tâm bám víu, lệ thuộc vào sáu căn và các đối tượng của sáu căn là sáu trần cảnh).

Thật ra, Đức Phật dạy chúng ta phải thường xuyên quán chiếu về tính vô ngã, vô thường của thân thể, cảm thọ, tâm ý và các đối tượng của tâm ý dù ta đang còn khỏe mạnh hay bệnh tật ốm đau. Tốt nhất là luôn quán chiếu trong đời sống thường nhật, để hình thành được tuệ quán sâu sắc, và nó sẽ trở nên rất hữu ích khi ta đối mặt với nỗi đau bệnh tật hay những biến cố trong cuộc đời, thậm chí là cái chết. Đừng đợi đến lúc già yếu, bệnh tật hoặc sắp lìa trần mới thực tập pháp quán chiếu này, vì khi ấy tâm thần hoang mang tán loạn, cơ thể đau đớn khổ sở vì bệnh tật hoành hành sẽ khiến chúng ta khó tập trung tâm ý để quán chiếu, khó có được chánh niệm, khó thành tựu tuệ giác.

Đức Phật dạy chúng ta phải thường quán chiếu: “Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, ở bên trong hay ở ngoại cảnh, thô kệch hay vi tế, cao quý hay thấp hèn, xa hay gần, đều cần phải được thấy thực tướng của nó với tri kiến chân chánh: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của  tôi”. Khi thấy như thật một cách sâu sắc về sắc, thọ, tưởng, hành, thức (hay mọi sự vật hiện tượng, con ngườithế giới), chúng ta sẽ nhàm chán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, ly tham, dứt bỏ, không luyến ái, nhờ đó được giải thoát” (Kinh Vô ngã tướng).  Hoặc trong các kinh Niệm xứ (Trung Bộ kinh, số 10), Đại niệm xứ (Trường bộ kinh, số 22), Tứ niệm xứ (Tương ưng bộ kinh), Đức Phật dạy các Tỳ-kheo phải thường quán chiếu về bốn lĩnh vực thân thể, cảm thọ, tâm ý và các pháp (đối tượng của tâm ý).

Quán niệm về thân thể hay quán thân trên thân là quán niệm hơi thở, quán niệm các thành phần vật chất nơi thân (phân tích bốn yếu tố rắn, lỏng, khí hơi, nhiệt độ), quán niệm các động tác của thân. Quán niệm về cảm thọ hay quán thọ trên thọ là quán cảm thọ dễ chịu, an vui; các cảm thọ khổ đau, khó chịu và các cảm thọ trung tính (không vui không khổ) xuất hiện nơi thân và tâm. Quán niệm về tâm ý hay quán tâm trên tâm là quán niệm nơi tâm có hay không có các phiền não tham, sân, si…; khi có thì biết có, khi không thì biết không. Quán niệm về các pháp hay đối tượng của tâm ý là quán niệm sự có mặt hay không có mặt của ái dục, sân hận, thụy miên, trạo hối, nghi (tức năm triền cái); hoặc quán niệm về Thất giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả; quán niệm về Tứ đế: khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ và con đường chấm dứt khổ v.v…

Chính những tình cảm, trách nhiệm đối với người thân, người thương xuất phát từ tâm tham ái, chấp thủ khiến cho người bệnh, người sắp lìa trần lo lắng, bất an; chính sự vướng mắc, bám víu, chấp vào thân thể, cảm thọ, luyến ái tấm thân và những dục lạc thế gian, những cảm thọ ưa thích, thiếu tuệ giác về duyên sinh, vô ngã, vô thường mà người bệnh, người sắp lìa trần rơi vào tâm trạng sợ hãi cái chết.

Nếu có được sự quán chiếu sâu sắc về thân thể, cảm thọ, tâm ý và các đối tượng của tâm ý để thấy rõ tính vô ngã, vô thường của chúng mà từ đó ly tham, không còn chấp thủ, luyến ái, không còn vướng mắc vào chúng thì khi đó người bệnh, người sắp lâm chung sẽ vượt qua được nỗi đau, nỗi lo lắng, sợ hãi cái chết.  

Diệu Thể

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9085)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 9998)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10179)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9475)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8007)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9272)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11298)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8693)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9046)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12170)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9538)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9395)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 9958)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11321)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9677)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10241)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13633)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18583)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19016)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13798)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19146)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11678)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23098)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19194)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18299)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8688)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27064)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19955)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15278)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15493)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26799)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16360)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19377)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19744)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19911)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18620)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32442)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20243)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45914)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6838)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22732)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24357)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39235)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20528)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19880)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40763)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18462)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9166)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17636)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant