Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Hành Để Giải Thoát, Không Khó!

18 Tháng Sáu 201610:33(Xem: 8378)
Tu Hành Để Giải Thoát, Không Khó!

TU HÀNH ĐỂ GIẢI THOÁT, KHÔNG KHÓ!

Như Không
 

Tu Hành Để Giải Thoát, Không Khó!

Thật vậy, ngay sau khi thành đạo, Đức PHẬT đã tuyên bốLỜI GIẢI CHO BÀI TOÁN KHỔ” của thế gian một cách rất ngắn gọn, giản dị, và rõ ràng; Chỉ như sự chửa bệnh của một ông Bác sĩ:

"Nầy các tỳ kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự Thật Cao Quý mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải trãi qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử... Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấu đạt 4 SỰ THẬT:

1)     SỰ THẬT về KHỔ,
2)     SỰ THẬT về NGUYÊN NHÂN của KHỔ
3)     SỰ THẬT về NIẾT BÀN (lúc khổ tận diệt)
4)     SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NIẾT BÀN
lòng tham thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh hữu được phá hủy, và từ đó không còn khổ đau vì sinh tử nữa."

Tuy nhiên lời dạy ngắn gọn đó của PHẬT mấy ai đã ghi nhớ đầy đủ.  Ngay SỰ THẬT đầu tiên, SỰ THẬT về KHỔ, có được bao nhiêu người đã ý thức thấu đáo?   Chỉ vì không ý thức thấu đáo SỰ THẬT về KHỔ mà bao nhiêu người đã và đang tiêu phí hết cả cuộc đời, “SỐNG để CHỜ CHẾT” rồi đi vào cỏi âm u.

Thời gian đi qua rất nhanh, thấm thoắt mà đã 40 năm rồi từ ngày chúng ta bỏ nước ra đi, năm 1975.  Từ đây cho đến ngày chết, dĩ nhiên còn nhanh chóng hơn thế nữa.  Thế nhưng CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT chúng ta đã thấy rõ hay chưa?  Nếu chưa thì đến ngày chết làm sao tránh khỏi đi vào cỏi MỊT MÙ?   Lần ra đi này còn MỊT MÙ hơn cả ngày vượt biên bỏ nước ra đi.  Thế nhưng đã có ai biết sửa soạn để không bị đi vào cỏi MỊT MÙ chưa?

Đừng tưởng chết đi có thể sinh được làm người trở lại một cách dễ dàng.  Nếu sinh được làm người trở lại mà dễ thì hẳn chúng ta đã hiểu đạo, CHỨNG ĐẠO, từ lâu rồi.  Tại sao qua vô vàn kiếp cho đến giờ này, chúng ta vẫn “mò mẫm” trên con đường tu hành, vẫn chưa thấy đâu bến bờ giải thoát?  -- Bởi vì sau khi chết không dễ gì sinh lại được làm người để tiếp tục học đạo.  Trong kinh tạng PHẬT đã nói rõ:

“Như lai thấy người chết đi xuống, nhiều như lông con bò, mà sinh lại làm người, hoặc đi lên, thì ít như 2 sừng bò”.

Đó là chưa nói đến trường hợp, sau khi chết, vì quá khát khao được sống trở lại, vô vàn chúng sanh trong lúc buồn khổ, thiếu tĩnh thức, đã đọa sinh vào các loài thú vật.  Trong trường hợp này thời gian chờ được tiến hóa để lên làm người trở lại, còn lâu xa hơn một con rùa ở dưới đáy biển, 100 năm nổi lên một lần, và đụng được một tấm váng trôi bồng bềnh trên mặt đại dương (xem Tương Ưng bộ kinh).  Đó cũng là một  SỰ THẬT về KHỔ mà vì chúng ta không hề hay biết, nên đã bị trầm luân từ vô vàn kiếp đến nay.   Trong Tương Ưng bộ kinh, có lần Đức PHẬT hỏi chúng tăng:

“Này chư tỳ kheo, đất trên đầu móng tay của ta và đất của cả quả địa cầu, bên nào nhiều hơn, bên nào ít hơn?”  -- Bạch đức Thế Tôn, không thể so sánh được, một bên quá ít, một bên quá nhiều.  “Này chư tỳ kheo, sự khổ còn lại của một bậc THÁNH NHẬP LƯU cũng ít như đất trên đầu móng tay của ta.  Trong khi sự khổ của những ai chưa đắc được THÁNH QUẢ NHẬP LƯU sẽ còn mênh mang như đất của quả địa cầu”.

Lý do như vậy là vì bậc THÁNH NHẬP LƯU (TU ĐÀ HOÀN) chỉ còn luân hồi tối đa 7 kiếp nữa thôi rồi sẽ được giải thoát hoàn toàn.   Và ngài chỉ sinh lại làm người hoặc vào các cỏi trời để tiếp tục tu hành, chứ không còn bị đọa lạc vào các khổ cảnh.   Như vậy có nghĩa rằng, muốn chấm dứt sự trầm luân trong các khổ cảnhđảm bảo sẽ được giải thoát hoàn toàn như các vị A LA HÁN, thì sự tu hành của chúng ta phải đạt cho bằng được THÁNH QUẢ NHẬP LƯU ngay trong kiếp này.   Đó là THÁNH QUẢ mà một người cư sĩthể đạt được, nếu học đầy đủ CHÁNH PHÁPTINH TẤN TU HÀNH để có thể LIỄU TRI tất cả 4 SỰ THẬT VI DIỆU ở trên.

Liễu tri 4 SỰ THẬT VI DIỆU cũng có nghĩa là liễu tri  BÁT CHÁNH ĐẠO, TỨ NIỆM XỨ, 12 NHÂN DUYÊN, LÝ DUYÊN KHỞI, 37 PHẨM TRỢ ĐẠO, cùng sự hiểu biết về  các TIẾN TRÌNH của THIỀN ĐỊNH và sự TU CHỨNG.  Vì các pháp đó đều chỉ là những sự khai triển từ 4 SỰ THẬT VI DIỆU mà ra.   Khi SỰ THẬT về NIẾT BÀN đã biết rõ ràng, khi CON ĐƯỜNG đi đến NIẾT BÀN cũng đã được thông suốt rõ ràng, thì sự tu hành đến nơi đến chốn sẽ tự nhiên xảy ra như PHẬT đã cho ví dụ ở trong Tăng Chi bộ kinh:

“Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu không khởi lên ước muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.  Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Có tu tập cái gì? Có tu tập Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc, có tu tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy giác chi, có tu tập Thánh đạo tám ngành.

Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà. Các trứng ấy được con gà mái ấp nằm đúng cách, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn: "Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!", tuy vậy, các con gà con ấy có thể với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn.

Nếu quí đạo hữu đã thật sự thấy MỌI HẠNH PHÚC THẾ GIAN ĐỀU HỨA HẸN ĐAU KHỔ để không còn bám víu và phí bỏ mọi thì giờ cho chúng nữa, thì tôi sẽ tận tình chia xẻ với quí đạo hữu đầy đủ PHÁP HỌC cũng như PHÁP HÀNH để quí vị có thể tìm thấy HẠNH PHÚC CHÂN THẬT.   Qúi đạo hữu phải có đầy đủ CHÁNH TRI KIẾN về giáo pháp của PHẬT trước khi đi vào THIỀN ĐỊNHTHIỀN QUÁN.   Bởi không thể có một ông bác sĩ ra trường mà chưa học đầy đủ lý thuyết về  y khoa.  Cũng không thể có một bác nông phu dầu tâm hồn yên tịnh đến cở nào, khi chăm chú nhìn trái táo rơi mà phát hiện ra được định luật về trọng lực (gravity) như  nhà vật lý NEWTON.   Sự tu hành cần có đầy đủ PHÁP HỌC (CHÁNH KIẾN) để làm vốn liếng cho CHÁNH TƯ DUY trước khi đi đến GIÁC NGỘ.

Nhiều Phật tử đã tưởng rằng sự tu hành chỉ cần chuyên tâm THIỀN ĐỊNH rồi sẽ phát sinh TRÍ TUỆ.  Do tưởng vậy họ nôn nóng đi tìm các thiền sư nổi tiếng để “hạ thủ công phu” mong được tức khắc giải thoát.   Họ không biết rằng nếu chưa học đầy đủ CHÁNH KIẾN của PHẬT để biết thế nào là CHÁNH ĐỊNH trước khi thực hành THIỀN, thì sự tu ĐỊNH sẽ rất dễ phát sinh TÀ KIẾN.  Do trong lúc thiền định THỌ và TƯỞNG biến hiện ra những ĐỊNH TƯỚNG ngoài tầm hiểu biết của họ để gây nên những sự hiểu lầm.  Nên nhớ rằng, dầu cho quí đạo hữu đã tuyên bố đắc ĐỊNH đắc TUỆ cở nào. nhưng nếu vẫn chưa thấy rõ được 4 SỰ THẬT của TỨ THÁNH ĐẾ, thì quí đạo hữu vẫn còn ở trong VÔ MINH, chưa có khả năng chấm dứt được sự KHỔ.

Đức PHẬT đã xác định như vậy ở trong Tương Ưng bộ kinh:  “Này Chư Tỷ-kheo, chính là không rõ biết KHỔ, không rõ biết KHỔ TẬP (nguyên nhân của khổ), không rõ biết KHỔ DIỆT (niết bàn), không rõ biết CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN KHỔ DIỆT (bát chánh đạo), đấy gọi là VÔ MINH. Cho đến như vậy là đi đến vô minh.”.    Phần cuối cùng của bài kinh TỨ NIỆM XỨ, trong phần QUÁN PHÁP, Đức PHẬT cũng đã chỉ  dạy cách kiểm chứng sự thành công của sự tu hành như sau:  Vượt qua 5 TRIỀN CÁI, thấy rõ NGỦ UẨN VÔ NGÃ, đạt được LỤC CĂN THANH TỊNH, đi hết tiến trình của 7 GIÁC CHI, và cuối cùng thấy rõ đầy đủ 4 SỰ THẬT của  TỨ THÁNH ĐẾ như đã nói ở trên.

Đó là sơ lược kinh nghiệm tu học của tôi theo đúng CHÁNH PHÁP của PHẬT.   Tôi không có kinh nghiệm thiền chứng của bất cứ một vị thiền sư danh tiếng nào để chia xẻ cho quí đạo hữu.  Tôi chỉ có thể giúp quí đạo hữu thấy rõ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT của Đức PHẬT đã ghi trong KINH TẠNG.  Để, nếu có quyết tâm, quí đạo hữu có thể đắc được THÁNH QUẢ TU ĐÀ HOÀN ngay trong kiếp này.   Nhưng dầu không thành đạt đi nữa thì quí đạo hữu, từ nay cho đến về sau, cũng xứng đáng được gọi là Phật tử hơn bao nhiêu người khác, vì đã nắm vững các giáo pháp chính của PHẬT.  Tôi sẽ giúp quí đạo hữu hiểu thật rõ các giáo pháp sau đây:

1. LÝ DUYÊN KHỞI:  Đây là chìa khóa để hiểu rõ những khúc mắc trong giáo lý đạo Phật, là trí tuệ để các vị DUYÊN GIÁC (ĐỘC GIÁC) PHẬT thành PHẬT trong thời kỳ không có một vị TOÀN GIÁC PHẬT ra đời.   Một giáo lý mà Đức Thích Ca đã ca ngợi như sau: “Này Ananda, giáo pháp Duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy. Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja (ba-ba-la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.”

2. 4 SỰ THẬT VI DIỆU
(Tứ Thánh Đế): Là trọn vẹn lời giải cho bài toán khổ của thế gian mà Chư Phật đều tuyên bố sau khi thành đạo.  Nếu quí đạo hữu không muốn đường tu đi về nơi vô định thì dứt khoát quí đạo hữu phải hiểu rõ NIẾT BÀN là gì?  Và con đường đến đó phải thấy rõ ràng.

Có một tội lỗi mà nhiều thầy tổ Trung Hoa đã vi phạm, do họ đã hiểu lầm lời Kinh BÁT NHÃ với trí óc chưa chứng đắc của họ.  Họ đã cho rằng TỨ ĐẾ “là pháp thấp thỏi của bọn hạ căn tiểu thừa”.  Trong khi đó thì chính Đức Phật lại tuyên bố đó là pháp cao nhất mà chỉ các bậc PHẬT TOÀN GIÁC mới có thể thấu triệt hoàn toàn:

"Này hỡi các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma VươngPhạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma-sambodhim).

Đến khi, này hỡi các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma VươngPhạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”  (Kinh Chuyển Pháp Luân

3. BÁT CHÁNH ĐẠO:  Là trọn vẹn con đường đi đến NIẾT BÀN, tận diệt khổ đau.  Áp dụng vào cuộc sống, vào hệ thống giáo dục thế gian, là con đường để phát triển TRÍ TUỆ, ĐẠO ĐỨC, và HẠNH PHÚC chân thật cho con ngườixã hội.  Qúi đạo hữu phải hiểu và áp dụng trọn vẹn tất cả BÁT CHÁNH ĐẠO mới có thể mong đạt đến các Thánh QuảĐức PHẬT đã khẳng định rằng:

“Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn (TU ĐÀ HOÀN), ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn (TU ĐÀ HÀM), cũng không có đệ tam Sa-môn (A NA HÀM), cũng không có đệ tứ Sa-môn (A LA HÁN). Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn.” (Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ 16)

4. TỨ NIỆM XỨ, THIỀN MINH SÁTĐây là con đường TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH mà tất cả các bậc giác ngộ đều phải đi qua để đạt đến NIẾT BÀN.  Bởi không thể có một bậc giác ngộ mà chưa hiểu chính mình.  Cũng bởi thế mà trong kinh TỨ NIỆM XỨ Đức PHẬT đã xác định như sau: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.”

TỨ NIỆM XỨ là một pháp THIỀN rất khoa học, chỉ phát triển TUỆ PHÂN TÍCH mà không phát triển  tâm THAM ÁI duy trì NGÃ CHẤP như các phương pháp thiền khác.   Với TỨ NIỆM XỨ quí đạo hữu khỏi cần khổ cực uốn nắn thân tâm theo cách nào, của bất cứ một vị thiền sư, hay của tông phái  nào cả.

Quí đạo hữu chỉ cần phát triển sự TÒ MÒ muốn TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH.  Rồi quí đạo hữu sẽ say sưa tìm hiểu về con người của mình như một KHOA HỌC GIA say sưa nghiên cứu, quên ăn quên ngủ.  Qúi đạo hữu có thể liên tục THIỀN ĐỊNH, THIỀN QUÁN một cách thích thú, không biết mõi mệt cho đến khi  khám phá được SỰ THẬT VÔ NGÃ thì sẽ biết NIẾT BÀN là như thế nào?

Không ai có thể trực tiếp thấy rõ mình bằng chính mình.  Chỉ cần phát triển sự thấy trực tiếp như vậy, quí đạo hữu sẽ thấy đầy đủ mọi góc cạnh của BÃN NGÃ, đầy đủ mọi tính chất tốt xấu của nó, cùng với những nguyên nhân từ đâu những tốt xấu và BÃN NGÃ sinh ra.  Từ đó quí đạo hữu sẽ khám phá ra đầy đủ tất cả 4 SỰ THẬT của TỨ THÁNH ĐẾ từ ngay trong cái thân tứ đại này.

5. NGHIỆP và 12 NHÂN DUYÊNĐây là lý thuyết giảng rõ những nguyên nhân tạo nên BÃN NGÃ, tạo nên sự trói buộc của NGHIỆP THỨC, tao nên vòng sinh tử luân hồi.  Đây là những CHÁNH KIẾN quí báu được trao truyền lại từ một bậc đã giác ngộ hoàn toàn, đã chứng đắc 3 MINH, để có cái nhìn xuyên suốt, vượt THỜI GIAN, vượt KHÔNG GIAN, để hiểu trọn tất cả những nguyên nhân  và sự vận hành của ĐAU KHỔ.

6. TIẾN TRÌNH GIÁC NGỘ và ĐẮC CHỨNG:   Như một người tiến bước trên đường xa, người đó cần biết rõ những mốc giới của từng chặng đường để kiểm chứng sự đi đúng đường và tiến triển của cuộc hành trình.  Sự tu học cũng như vậy, quí đạo hữu cần THIỀN QUÁN theo đúng 7 tiến trình của sự giác ngộ, 7 GIÁC CHI, cùng phải hiểu rõ những điều kiện để đạt đến những Thánh Quả.   Vì sự thành đạt trên đường tu hành cũng không ra khỏi LUẬT NHÂN QUẢ.   Nếu không hiểu được NHÂN thì sẽ không tạo được QUẢ.  ĐẠO TRÍ TUỆ của PHẬT Không có kiểu đắc đạo theo cách “chờ sung rụng”.   Đừng bỏ “NGÓN TAY” chỉ đúng hướng của PHẬT mà đi theo những “NGÓN TAY NGO NGOE” của những kẻ chủ trương PHI PHÁP.  Phải biết rõ SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG đi đến NIÊT BÀN, không thể mơ hồ.

7. CÁC PHẨM TRỢ ĐẠO:  Đây chỉ là những lời dặn dò sau cùng của tôi, để nhắc nhở những người tu học cần mang theo đầy đủ những hành trang gì, những phụ tùng gì, để khi đi trên CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT sẽ không gặp trở ngại và sẽ đi đến nơi đến chốn một cách suông sẻ.

Mọi thắc mắc xin liên lạc: NHƯ KHÔNG  gsnhukhong@gmail.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 767)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1168)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1238)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1172)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1743)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1145)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1172)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant