Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 4

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13551)
Phần 4

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


31. Mua lừa

Thuở xưa có một số tín đồ của đạo Bà La Môn cử hành cuộc đại hội, họ cần dùng nhiều chén bạc. Vị giáo chủ của họ bảo đệ tử lên chợ mời một người thợ đồ sứ về làm. Ðệ tử vâng lệnh đi tìm thợ. Ði giữa đường bọn họ gặp người thợ đang dắt một con lừa, trên lưng chở rất nhiều đồ sứ đem ra chợ bán. Lừa sẩy chơn té quỵ xuống, bao nhiêu đồ sứ trên lưng đều rớt xuống đất và bể tan tành. Người thợ đồ sứ buồn rầu khóc lóc mãi. Bọn họ thấy thế lấy làm lạ hỏi rằng:

- Tại sao anh khóc buồn bã thế?

Người thợ trả lời:

- Tài nào tôi không khóc, bao nhiêu đồ sứ công phu làm trong một năm, nay định chở đem ra chợ bán nào ngờ con lừa bị sảy chân, trong khoảng khắc bể nát cả, như thế không đáng rầu rĩ ư!

Bọn họ nghe thế mừng thầm và nghĩ rằng:

- Con lừa nầy giỏi quá, công khó người thợ làm một năm, chỉ trong nháy mắt nó có thể làm tiêu tan hết.

Bây giờ bọn họ mới thương lượng với người thợ để mua con lừa. Người thợ đang tức giận muốn tống cổ nó đi, nghe có người mua nó, vội vã bán ngay.

Bọn họ cưỡi lừa về ra mắt giáo chủ, vị giáo chủ hỏi rằng:

- Tại sao không tìm thỉnh người thợ đồ sứ, mà lại mua lừa đem về?

Bọn đệ tử trả lời:

- Bản lảnh con lừa nầy, lớn hơn người thợ đồ sứ, vì người thợ làm trong một năm mới thành một số đồ, mà chỉ trong giây phút một mình nó, nó phá tan.

Vị giáo chủ lắc đầu lia lịa và nói rằng: 

- Sao các con dại dột thế? Con lừa nầy, trong khoảnh khắc có thể làm bề bao nhiêu đồ sứ, nhưng dù trải trăm năm, nó cũng không thể làm ra được một cái.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ở đời có nhiều người thọ ân của người khác giúp đỡ, chẳng những họ không thù đáp lại, mà thường hay trả oán. Hạng người vong ân bội nghĩa như thế, chúng ta không nên gần gũi, vì chỉ có hại chứ không ích lợi gì.

32. Trôm vàng

Thuở xưa có hai người thương gia cùng ở một chỗ, một người buôn vàng, một người buôn bông vải. Có người đến mua vàng, để vàng vào lửa thử xem thiệt hay giả. Người buôn bông vải kia lén trộm một cục, sợ thấy, bèn đem giấu trong bông. Vàng đang cháy nóng đỏ làm cho bao nhiêu bông vải cháy sạch sành sanh, công việv bại lộ. Người kia chẳng những không trộm vàng được, mà còn bị cháy hết bao nhiêu là bông vải.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo ăn cắp giáo lý của đạo Phật đem làm của mình, nhưng vì họ không rõ nguyên lý, không khéo xử dụng, chẳng những không hiểu Phật pháp, việc làm không đi đến đâu, mà lại làm cho giáo pháp của họ bị pha trộn. Chung kết cơ mưu bị bại lộ, làm trò cười cho kẻ bàng quan.

33. Chặt cây tìm trái

Thuở xưa trong vườn một ông vua, có trồng một thứ trái cây rất tốt, tàng nhánh sum xê, sanh trái ngon ngọt lạ thường, không chỗ nào có.

Ngày nọ có người khách ngoại quốc đến chơi, vua đưa đi xem cây ấy và nói rằng:

- Cây nầy sanh một thứ trái ngon vô song, chẳng nơi nào có cả.

Khách hỏi:

- Quả thật có trái ngon, vậy cho tôi một trái ăn thử được không?

Vua bằng lòng, bèn gọi người đốn cây ngã xuống để tìm trái, nhưng tìm không được trái nào. Sau đó, vua báo người đem cây đã chặt trồng lại, rồi tìm đủ biện pháp, cũng không thể nào làm cho nó đâm chồi nẫy tược như xưa. Cây ấy chết tuyệt, không còn sanh trái nữa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðức Thích Tôn đã từng chỉ cho chúng ta công đức trì giới, giống như cây đại thụ, có thể sanh các thứ trái thần thông, trí tuệ, từ bi, thiền định ngon lành. Chúng ta muốn có những thứ trái cây ấy, thì trước tiên phải trì giới tu hành, dùng nhiều công đức pháp lành bón tươi, mới mong kết quả tốt đẹp hoàn toàn. Nhưng có một ít người không hiểu phương pháp ấy, buông lung hủy phạm giới luật oai nghi, mà còn mong cầu thần thông, định, huệ, khác nào người chặt cây tìm trái như trên, chẳng những trái không tìm được, mà cây quí từ nay đã chết khô. Hạng người hành động như thế thật đáng thương xót.

34. Thâu ngắn đuờng đi

Thuở xưa có một thôn cách kinh thành một trăm dặm, nơi ấy có một cái giếng nước rất trong và ngon ngọt, lạ thường. Vua hạ lệnh cho dân làng, mỗi ngày phải chở nước về kinh thành cho vua uống.

Dân làng ngày ngày tới lui mệt mỏi không chịu được, bèn rủ nhau trốn đến phương xa. Việc nầy thôn trưởng biết được, mới triệu tập một cuộc đại hội thôn dân, vị thôn trưởng đứng ra tuyên bố:

- Các anh em chớ đi đâu hết, tôi sẽ yêu cầu nhà vua thâu ngắn con đường một trăm dặm thành sáu mươi dậm tức khắc. Các anh em đi lại sẽ gần hơn, không nổi mệt mỏi như trước.

Hội nghị bế mạc, vị thôn trưởng vội vã vào kinh yêu cầu vua như thế. Vua phê chuẩn lời thỉnh cầu, và hạ lệnh cho sở lục lộ thâu ngắn con đường một trăm dặm còn sáu mươi dặm. Dân làng được tin ấy đều vui mừng và tự cảm thấy gần hơn trước. Từ đấy họ càng tin tưởng lời vua, họ đồng lòng tỏ không dời đi đâu cả. 

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời phát tâm tu học chánh pháp mong cầu thoát ly sanh tử, luân hồi, nhưng vì thời gian tu học dài dăng dẳng, nên càng thấy mỏi mệt, nửa đường thối tám không muốn tiến tới.

Ðức Như Lai có đủ phương tiện, đem pháp nhất thừa phương tiện nói ba thừa, khiến cho hàng căn tánh kém cỏi, trí huệ cạn gần, nghe xong cho là Phật pháp dễ tu, dễ chứng, mới mạnh mẻ nổ lực tiến tu pháp lành công đúc, hầu thoát ly sanh tử luân hồi. Sau khi bọn họ chứng quả vị tiểu thừa xong, Phật trở lại chỉ trích họ. Ngài thuyết minh: Phật pháp xưa nay chỉ có nhứt thừa chớ không có hai hay ba thừa, nghĩa là: "Sự thật chỉ có một, hể có hai cái tương đối thì không phài là chơn". Bây giờ bọn họ càng tin tưởng lời Phật, có thể hồi tiểu quả hướng đến đại thừa, tin thế không nghi, an nhiên tiến tu đạo đại thừa Bồ Tát.

35. Thấy bóng trong gương

Thuở xưa có một người rất nghèo khổ, mắc nợ quá nhiều, không có biện pháp để trả nợ, chỉ còn có cách là đi trốn.

Ngày nọ, y đi đến cánh đồng bao la bát ngát, chợt thấy một cái rương, bèn mở ra xem thử, thấy đầy một rương ngọc ngà, châu báu, có đậy một miếng kiếng lên trên. Bây giờ y vui mừng không xiết, bèn thò tay vào lấy những của báu ấy. Nhưng y thấy trong rương hiện ra một người (tức là bóng của y) có vẻ dọa nạt y, y hoảng sợ dừng tay lại, trong tâm lo sợ không an, bèn nói với người trong gương:

- Ta cho là trong cái rương trong nầy, không có phương hướng, tưởng đâu là không có người, nào dè thấy có người trong đó, quái lạ chưa?

Nói xong y vội vàng chạy đi nơi khác.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời thường bị vô lượng phiền não ràng buộc, làm cho khốn đốn, khổ nảo, không có phúc đức, duyên lành, lại thường bị sống chết quay cuồng "ma vuông, trái chủ" áp bức khổ sở, nên muốn cầu giải thoát khỏi vòng thống khổ, đau thươngtu học Phật pháp.

Bọn họ có công vun bồi cỏi phúc giống lành, dụ như cái rương đầy của báu, rồi lại thường bị "thân kiến ngã chấp" làm mờ, cho nên ở trong vô thường, vô ngã vọng chấp có ngã thường còn. "Thân kiến", "ngã chấp" dụ như bóng hiện trong gương, bọn họ lầm cho là chân thật, do đây mà không thể tu hành thiền định, đạo phẩm, chứng thành công đức vô lậu. Hành vi của bọn họ cùng với cử chỉ của người đã đến rương báu mà không lấy được vật gì, đồng nhau không khác.

36. Lầm móc con mắt

Thuở xưa có một người tu trên núi, học được pháp thuật, có thể khám phá tất cả ngọc ngà, châu báu chôn dưới đất lâu năm. Chuyện nầy thấu đến tai vua, vua rất mừng rỡ, bảo quần thần rằng:

- Ta muốn mời nhà nghệ thuật ấy ở luôn trong nước để giúp ta tìm của báu đã bị chôn vùi, nước chúng ta sẽ trở nên đại phú cường tức khắc.

Bây giờ có vị đại thần lảnh sứ mạng đi tìm nhà nghệ thuật. Vị đại thần quả nhiên tìm được người ấy, nhưng không chịu thỉnh về nước, mà lại móc cặp mắt của người, đem về dâng cho vua và nói:

- Hạ thần đã móc mắt của nhà nghệ thuật rồi, họ sẽ không thể đi khỏi nước được.

- Vua nghe xong lấy làm bất mãn nói rằng:

- Ngươi thật là dại dột, sở dĩ ta muốn thỉnh người là vì người có cặp mắt, có thể khám phá được của báu bị mai táng. Nay ngươi hủy hoại cặp mắt của người rồi thì người ấy còn dùng vào việc gì được nữa!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật giáo do nhận thấy các bậc đại đức cao tăng khắc khổ thanh tu trong rừng núi, phi thường cung kính rước về nhà cúng dường, không biết rằng làm thể chỉ ngăn ngại sự tu khắc khổ thanh đạm của các ngài, thậm chí làm cho các ngài hủy phá giới hạnh, lui sụt pháp lành, không thể thành công đắc quả.

Phật tử tại gia thường hay mắc bệnh mủ quáng và lầm lớn. Hộ pháp không biết pháp, cúng dường không đúng pháp hoặc đem tình đời làm lem ố giới, định thanh cao của các bậc đại đức xuất gia, làm thế mình và người đều bị hại, gây nên tội lỗi không vừa.

37. Giết trâu

Xưa có một người nuôi 250 con trâu, thường thả ra đồng ăn cỏ.

Một hôm, có con cọp vồ lấy một con ăn thịt. Người kia thấy thế, tự nghĩ thầm: "Trâu ta mất một con, không đụ số, ta còn dùng bầy trâu đây làm gì?" bèn đuổi cả bầy trâu xuông hố, chúng chết tuyệt không còn lấy một con.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật tử xuất gia thọ trì "Giới cụ túc" hai trăm năm mươi rất hoàn hảo. Sau đó bất cẩn lỡ phạm một điều, đã không biết xấu hổ, ăn năn, sám hối cho trở lại thanh tịnh như xưa; mà lại lầm tưởng: "Ta đã phá một giới rồi, thì giới hạnh đã kém khuyết, dù có ăn năn giữ kỹ các giới cũng chẳng ích gì". Rồi từ đây ngang nhiên phạm giới không biết kiêng sợ, bỏ cả giới luật không hành trì. Người tu hành như thế cùng với người giết trâu như kia đều là hạng ngu si đáng thương cả.

38. Bảo nước đừng chảy

Thuở xưa có một người đi đường rất khát nước, xem thấy bên đường có cái hang, giòng suối từ trong ấy chảy ra nước trong leo lẻo, kế bên có cái thùng hứng nước đầy tràn. Người kia bèn kê miệng uống. Sau khi uống đở khát rồi, y chỉ cái thùng và nói:

- Ta uống đở khát rồi, vậy nước ơi! Ðừng chảy ra nữa.

Nhưng nước vẫn y nhiên chảy mãi không ngừng. Người kia tức mình quá, đứng bên cái thùng chữi rủa om sòm. Mọi người thấy thế cười và trách anh ta rằng:

- Anh cần gì làm thế, hãy lánh đi nơi khác đi, hà tất phải bảo nước đừng chảy nữa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời thường say đắm trong biển sanh tử tham ái, uống nước ngủ dục tanh hôi, đôi khi cũng cảm thấy chán chê, ước mong con ma ngủ dục lạc đừng đến quấy rầy, nhưng nào được như ý. Muốn thế ta cần phải đề phòng các giác quan, tự kiểm thảo lấy mình cho cẩn thận: Tạm đừng dính líu duyên trần, ý đừng vọng tưởng sự thế. Chớ nếu chẳng dụng công xá bỏ bợn nhợ nơi lòng, mà chỉ mong muốn ngăn cảnh ngủ dục bên ngoài đừng đến quấy nhiểu, thì chẳng những không thể ngàn được miếng mồi ngủ dục (I), mà lại hằng bị nó lôi cuốn vào đường trụy lạc đau thương, mãi quay cuồng trong hố sâu tội lỗi, chẳng hy vọng ngày nào giải thoát được phiền não, mê lầm. Hành động như thế chỉ luống công vô ích

(I) Ngủ dục: Tài, sắc, danh, ăn ,ngủ; hoặc là sắc, hương, thinh, vị, xúc, cảnh giới đây thường thường làm cho con người điên đảo, mê hoặc.

39. Sơn tường

Thuở xưa có một người, y đến chơi nhà người bạn, thầy vách tường nhà bạn sơn bóng loáng, ráo khô, sạch sẽ, mới hỏi rằng:

- Anh dùnh thứ chi sơn quét vách tường đẹp thế?

Người bạn trả lời:

- Tôi dùng cám trộn với bùn và nước.

Người kia làm tường: Dùng cám mà còn tốt như vậy, nếu dùng nguyên lúa trộn với bùn mà sơn tường, thì chắc tốt hơn thế nữa.

Y bèn trở về nhà, dùng rất nhiều lúa trộn với bùn sơn lên vách. Kết quả chẳng những hoang phí một số lúa mà còn làm cho vách tường trở nên chỗ lồi, chỗ lõm không bằng, nhiều nơi sứt mẻ.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Một số người hiều lầm Phật pháp, hoặc tự cho mình là thông minh, tu bướng theo ức kiến của mình, rồi xa chánh pháp, thường thường mắc bệnh khổ công tu hành mà chỉ tổn hại không ích. Thí như phàm phu nghe Thánh nhân thuyết pháp rằng: Tu các pháp lành, sau khi chết sẽ được sanh thiên, hoặc được giải thoát; rồi họ tự lầm lộn giết chết thân mình mong được sanh thiên hưởng phước báo. Kết quả chỉ luống hủy thân, đối với sự tu hành không được chi cả. Họ với người kia đều là hạng ngu si.

40. Người sói đầu tìm thuốc.

Thuở xưa có một người đầu sói không có một sợi tóc, về tuyết đông lạnh vô cùng, mùa hạ nóng không thể tả, lại bị muỗi mòng bu cắn rất là đau đớn. Chẳng nghe đồn có vị lương y có thể trị hết bệnh sói và bất cứ bệnh gì, khó trị cách mấy ông cũng đều trị lành.

Người bèn đến nơi thưa hỏi:

- Tôi có bệnh sói đầu rất đau đớn, nghe đồn ngài có thể trị lành bệnh tôi, cúi xin thương xót chữa cho tôi khỏi bệnh. 

Lập tức vị lương y lột nón của mình ra đưa đầu sói cho xem và nói: 

- Thấy chăng, ta tự mắc bệnh ấy và đau khổ vô cùng. Giả sử ta có thể trị được bệnh sói, thì ta đã tự chữa cho ta khỏi bệnh rồi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời mắc chứng bệnh: Sanh, già, bệnh, chết rất khổ não; muốn cầu đạo trường sanh bất tử mà không chịu đến với Phật, Bồ tát là những bậc Thánh nhân siêu trần để cầu học đạo thoát ly, mà trở lại tự mình mù quáng, đến bốn ngoại đạo thỉnh cầu, dầu biết bọn ngoại đạo tự mình vẫn bị trôi lăn trong vòng sanh tử, luân hồi, không có pháp giải thoát, làm sao cứu được người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26638)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28234)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29372)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33271)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21754)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32274)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27106)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20612)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22241)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23970)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22853)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23191)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23120)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22312)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21777)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19240)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20136)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30887)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41497)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32702)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19115)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24961)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23673)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25302)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27752)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24989)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23815)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23192)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20876)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28144)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28901)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19202)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24580)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21415)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23821)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28597)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29393)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17633)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31009)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25313)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18945)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20119)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23935)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19034)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20148)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20028)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24814)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19394)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22552)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61805)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31125)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22102)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant