Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phước Đức Và Công Đức

Sunday, April 28, 202419:10(View: 858)
Phước Đức Và Công Đức

Phước Đức Và Công Đức

Nguyễn Thế Đăng

 
3

Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.

Trong bài này sự khác biệt giữa phước đức và công đức được dựa vào Kinh Kim Cương Bát Nhãdo Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch. Sở dĩnhư vậy vì kinh này nhắc nhiều lần đến hai từ phước đức và công đức.

 

1/ Phước đức

Đoạn kinh đầu tiên nhắc đến từ phước đức như sau:

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường. 

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Hư không phương Đông có thể nghĩ lường chăng? Thưa không, bạch Thế Tôn. Tu Bồ Đề! Hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn hương phụ, phương trên phương dưới, có thể nghĩ lường chăng? Thưa không, bạch Thế Tôn

Tu Bồ Đề! Bồ tát không trụ tướng mà bố thí phước đức cũng lại như vậy, không thể nghĩ lường”.

Ở đây nói về phước đức trong một hành động cụ thể là bố thíBố thí là một hành động tạo ra phước đứcBố thí là nhân, phước đức là quả. 

Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là những vật thể hữu hạn, vô thườngDựa vào chúng, trụ vào chúng như là nhân để bố thí thì quả, tức là phước đức, cũng hữu hạn, vô thường, có một thời gianrồi lại hết.

“Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể lường”: phước đức chẳng thể lường là điều mà Kinh dạy cho người ta hướng đến. Và phước đức chẳng thể lường nếu người ấy không trụ nơi tướng mà bố thí.

Phần cuối của đoạn trên cho biết phần nào “phước đức không thể nghĩ lường” là thế nào. Như hư không của các phương, hư không ấy là không thể nghĩ lường, vì không có giới hạnvô biên vì không bị giới hạn bởi các tướng. Bố thí không trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường, rộng lớn như hư không.

Cách nói: “Phước đức của người bố thí bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới không bằng phước đức của người thọ trì chỉ bốn câu kệ của kinh này rồi vì người khác giảng nói”, được lập lại nhiều lần trong kinh.

Phước đức của người thọ trì kinh là vô lượng:

Khi nghe lời câu ấy (của Kinh), thậm chí ngay trong một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này Tu Bồ ĐềNhư Lai rõ, thấy rõ những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức

Vì sao thế? Chính vì chúng sanh ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không có tướng chẳng phải pháp. 

Vì sao thế? Vì nếu những chúng sanh ấy tâm nắm giữ tướng tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanhthọ giả. Nếu nắm giữ tướng pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanhthọ giả

Vì sao thế? Nếu nắm giữ tướng chẳng phải pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanhthọ giả”.

Ngã là tôi; nhân: tôi là người; chúng sanh: tôi là chúng sanhthọ giảthọ mạng của tôi là khoảng thời gian nào đó. Đây là bốn ý tưởng cắt chia thực tại toàn thể của tôi.

Bố thí chỉ có phước đức hữu hạn, vô thường mà không có được phước đức vô lượng vì sự phân biệt, chia cắt thực tại của mỗi người.

Trước hết trong hành động bố thí, có sự phân biệt, chia cắt thành người bố thívật để bố thí và người nhận bố thí. Sự phân biệt này đã chia cắt thực tại tánh Không (Kinh Kim Cương giảng dạy về thực tại tánh Không) làm ba phần tách biệt nhau.

Thứ hai là nơi vật bố thí cũng có sự phân biệt, chia cắt thành từng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thực tại đã bị chia cắt, phân mảnh để thành những phần tử thay vì là một toàn thể tánh Không.

Cuối cùng nơi chủ thể bố thí cũng có sự phân biệt, chia cắt thành bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả.

Thực tại tánh Không - tánh Như đã bị chia cắt, phân mảnh, manh mún một cách giả tạo và sai lầm, do đó không thể có một phước đức vô lượngtoàn thể mà chỉ có những phần tử phước đức nhỏ hẹp, phân mảnh, hữu hạn, và có khi những phước đức hữu hạn lại trở ngại, trái nghịch nhau.

 

Thế nên để vượt thoát khỏi những giới hạn này, người ta phải vượt thoát ngã, nhân, chúng sanhthọ giả. Người ta cũng phải không phân biệt chia cắt đối tượng thành từng phần mảnh để thực tạiđược hiện hữu như chính là thực tại.

 

Trong một hành động bố thí, nếu người ta không phân biệt, không tự chia cắt mình với người được nhận và sự vật được cho, khi ấy hành động bố thí là một toàn thể không hở nứt, khi ấy người ta tương ưngthể nhập tánh Không. Như thế qua hành động (karma, nghiệp), người ta có thể tương ưng và thể nhập tánh Khôngđạt được giải thoát.

 

2/ Công đức

Công đức là gì? Ngài Tu Bồ Đề nói:

Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người được nghe kinh này, tín tâm thanh tịnh liền sanh thật tướng. Phải biết người ấy thành tựu công đức hy hữu đệ nhất. 

Bạch Thế Tôn! Thật tướng ấy tức là chẳng phải tướng, thế nên Như Lai gọi là thật tướng

Bạch Thế Tôn! Nay con được nghe kinh điển như vậy, tin hiểu thọ trì, chưa phải là khó. Nếu vào năm trăm năm sau, có chúng sanh nào được nghe kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy là hy hữu đệ nhất. Vì sao thế? Người ấy không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả

Bởi vì sao thế? Tướng ngã tức chẳng phải tướng. Tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giảtức là chẳng phải tướng. Vì sao thế? Lìa hết thảy tướng tức gọi là chư Phật. 

Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như vậy”.

Công đức hy hữu đệ nhất là không có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả. Không có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả là tánh Không, là thật tướng.

 

Công đức của bố thí là bố thí mà không có bốn tướng. Nói cách khác, công đức là việc làm phước đức nhưng không bị giới hạn trong bốn tướng và nhân quả của phước đức, mà được làm trong tánh Không và qua tánh Không.

 

Với tánh Khôngviệc làm phước đức trở thành “vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể đo lường được”.

Nếu có người có thể đọc tụng, rộng giảng (Kinh Kim Cương nói về tánh Không) cho người, Như Laibiết rõ, thấy rõ những người ấy đều được thành tựu công đức không thể nghĩ lường, không thể tínhvô biên, không thể nghĩ bàn. Những người như thế đảm đương Giác ngộ Vô thượng của Như Lai”.

 

Ở đoạn trước có câu kinh: “Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức ấy chẳng thể nghĩ lường”.

“Phước đức chẳng thể nghĩ lường” là công đức. Như thế, nếu trụ vào tướng mà bố thí thì sẽ được một phước đức hữu hạn. Còn cũng một việc bố thí ấy mà không trụ tướng thì công đức vô hạn, nghĩa là tương ưng, hòa nhập với tánh Không vô biênvô lượng.

 

Cũng một sự việc mà người ta có thể biến phước đức hữu hạn, vô thườngthành công đức vô biênvô lượng. Đây là điều Kinh Kim Cương chỉ dạy cho các hành giả tu Bồ tát hạnh, vì trong đoạn mở đầu, kinh đã nói, “Như Lai khéo thường hộ niệm các Bồ tát, khéo phó chúc cho các Bồ tát”.

Bồ tát hạnh là làm các ba la mật, như bố thí…, từ tánh Không, trong tánh Không và qua tánh Không. Đây nghĩa là công đức vô lượng

 

3/ Câu chuyện công đức giữa Bồ Đề Đạt Ma và vua Lương Võ Đế

Khi vua Lương Võ Đế hỏi ngài Đạt Ma

- Trẫm từ khi lên ngôi vua đến nay, giúp người, cứu đời, in kinh, tạo tượng, thì được bao nhiêu công đức? 

Ngài Bồ Đề Đạt Ma nói: 

- Không công đức. (Vô công đức)”

Khi ngài Đạt Ma nói “không có công đức” không có nghĩa là việc làm của Lương Võ Đế không có phước đức, không ích lợi gì. Nếu ngài hoàn toàn bác bỏ việc làm phước đức của vua, thì đây là đoạn kiến.

Việc làm tốt của vua không có công đức vì vẫn nằm trong ngã, nhân, chúng sanhthọ giả; nhưng có phước đức, được hưởng phước báo của trời người.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 100)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 139)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 129)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 217)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 174)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 277)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 219)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 285)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 554)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 471)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 433)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 444)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 394)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 354)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 448)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 662)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 480)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 466)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 624)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 719)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 557)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 635)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 811)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 794)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 840)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 695)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1024)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 843)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 803)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 781)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 893)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 799)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1234)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 836)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 860)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 957)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1131)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 962)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 933)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 899)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 998)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1144)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1229)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 899)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 1002)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1099)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1363)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1065)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1154)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1368)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1221)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1200)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1379)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1521)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1850)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1661)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1564)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(View: 1438)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM