Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phước Đức Và Công Đức

28 Tháng Tư 202419:10(Xem: 127)
Phước Đức Và Công Đức

Phước Đức Và Công Đức

Nguyễn Thế Đăng

 
3

Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.

Trong bài này sự khác biệt giữa phước đức và công đức được dựa vào Kinh Kim Cương Bát Nhãdo Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch. Sở dĩnhư vậy vì kinh này nhắc nhiều lần đến hai từ phước đức và công đức.

 

1/ Phước đức

Đoạn kinh đầu tiên nhắc đến từ phước đức như sau:

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường. 

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Hư không phương Đông có thể nghĩ lường chăng? Thưa không, bạch Thế Tôn. Tu Bồ Đề! Hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn hương phụ, phương trên phương dưới, có thể nghĩ lường chăng? Thưa không, bạch Thế Tôn

Tu Bồ Đề! Bồ tát không trụ tướng mà bố thí phước đức cũng lại như vậy, không thể nghĩ lường”.

Ở đây nói về phước đức trong một hành động cụ thể là bố thíBố thí là một hành động tạo ra phước đứcBố thí là nhân, phước đức là quả. 

Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là những vật thể hữu hạn, vô thườngDựa vào chúng, trụ vào chúng như là nhân để bố thí thì quả, tức là phước đức, cũng hữu hạn, vô thường, có một thời gianrồi lại hết.

“Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể lường”: phước đức chẳng thể lường là điều mà Kinh dạy cho người ta hướng đến. Và phước đức chẳng thể lường nếu người ấy không trụ nơi tướng mà bố thí.

Phần cuối của đoạn trên cho biết phần nào “phước đức không thể nghĩ lường” là thế nào. Như hư không của các phương, hư không ấy là không thể nghĩ lường, vì không có giới hạnvô biên vì không bị giới hạn bởi các tướng. Bố thí không trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường, rộng lớn như hư không.

Cách nói: “Phước đức của người bố thí bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới không bằng phước đức của người thọ trì chỉ bốn câu kệ của kinh này rồi vì người khác giảng nói”, được lập lại nhiều lần trong kinh.

Phước đức của người thọ trì kinh là vô lượng:

Khi nghe lời câu ấy (của Kinh), thậm chí ngay trong một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này Tu Bồ ĐềNhư Lai rõ, thấy rõ những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức

Vì sao thế? Chính vì chúng sanh ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không có tướng chẳng phải pháp. 

Vì sao thế? Vì nếu những chúng sanh ấy tâm nắm giữ tướng tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanhthọ giả. Nếu nắm giữ tướng pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanhthọ giả

Vì sao thế? Nếu nắm giữ tướng chẳng phải pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanhthọ giả”.

Ngã là tôi; nhân: tôi là người; chúng sanh: tôi là chúng sanhthọ giảthọ mạng của tôi là khoảng thời gian nào đó. Đây là bốn ý tưởng cắt chia thực tại toàn thể của tôi.

Bố thí chỉ có phước đức hữu hạn, vô thường mà không có được phước đức vô lượng vì sự phân biệt, chia cắt thực tại của mỗi người.

Trước hết trong hành động bố thí, có sự phân biệt, chia cắt thành người bố thívật để bố thí và người nhận bố thí. Sự phân biệt này đã chia cắt thực tại tánh Không (Kinh Kim Cương giảng dạy về thực tại tánh Không) làm ba phần tách biệt nhau.

Thứ hai là nơi vật bố thí cũng có sự phân biệt, chia cắt thành từng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thực tại đã bị chia cắt, phân mảnh để thành những phần tử thay vì là một toàn thể tánh Không.

Cuối cùng nơi chủ thể bố thí cũng có sự phân biệt, chia cắt thành bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả.

Thực tại tánh Không - tánh Như đã bị chia cắt, phân mảnh, manh mún một cách giả tạo và sai lầm, do đó không thể có một phước đức vô lượngtoàn thể mà chỉ có những phần tử phước đức nhỏ hẹp, phân mảnh, hữu hạn, và có khi những phước đức hữu hạn lại trở ngại, trái nghịch nhau.

 

Thế nên để vượt thoát khỏi những giới hạn này, người ta phải vượt thoát ngã, nhân, chúng sanhthọ giả. Người ta cũng phải không phân biệt chia cắt đối tượng thành từng phần mảnh để thực tạiđược hiện hữu như chính là thực tại.

 

Trong một hành động bố thí, nếu người ta không phân biệt, không tự chia cắt mình với người được nhận và sự vật được cho, khi ấy hành động bố thí là một toàn thể không hở nứt, khi ấy người ta tương ưngthể nhập tánh Không. Như thế qua hành động (karma, nghiệp), người ta có thể tương ưng và thể nhập tánh Khôngđạt được giải thoát.

 

2/ Công đức

Công đức là gì? Ngài Tu Bồ Đề nói:

Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người được nghe kinh này, tín tâm thanh tịnh liền sanh thật tướng. Phải biết người ấy thành tựu công đức hy hữu đệ nhất. 

Bạch Thế Tôn! Thật tướng ấy tức là chẳng phải tướng, thế nên Như Lai gọi là thật tướng

Bạch Thế Tôn! Nay con được nghe kinh điển như vậy, tin hiểu thọ trì, chưa phải là khó. Nếu vào năm trăm năm sau, có chúng sanh nào được nghe kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy là hy hữu đệ nhất. Vì sao thế? Người ấy không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả

Bởi vì sao thế? Tướng ngã tức chẳng phải tướng. Tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giảtức là chẳng phải tướng. Vì sao thế? Lìa hết thảy tướng tức gọi là chư Phật. 

Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như vậy”.

Công đức hy hữu đệ nhất là không có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả. Không có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanhthọ giả là tánh Không, là thật tướng.

 

Công đức của bố thí là bố thí mà không có bốn tướng. Nói cách khác, công đức là việc làm phước đức nhưng không bị giới hạn trong bốn tướng và nhân quả của phước đức, mà được làm trong tánh Không và qua tánh Không.

 

Với tánh Khôngviệc làm phước đức trở thành “vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể đo lường được”.

Nếu có người có thể đọc tụng, rộng giảng (Kinh Kim Cương nói về tánh Không) cho người, Như Laibiết rõ, thấy rõ những người ấy đều được thành tựu công đức không thể nghĩ lường, không thể tínhvô biên, không thể nghĩ bàn. Những người như thế đảm đương Giác ngộ Vô thượng của Như Lai”.

 

Ở đoạn trước có câu kinh: “Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức ấy chẳng thể nghĩ lường”.

“Phước đức chẳng thể nghĩ lường” là công đức. Như thế, nếu trụ vào tướng mà bố thí thì sẽ được một phước đức hữu hạn. Còn cũng một việc bố thí ấy mà không trụ tướng thì công đức vô hạn, nghĩa là tương ưng, hòa nhập với tánh Không vô biênvô lượng.

 

Cũng một sự việc mà người ta có thể biến phước đức hữu hạn, vô thườngthành công đức vô biênvô lượng. Đây là điều Kinh Kim Cương chỉ dạy cho các hành giả tu Bồ tát hạnh, vì trong đoạn mở đầu, kinh đã nói, “Như Lai khéo thường hộ niệm các Bồ tát, khéo phó chúc cho các Bồ tát”.

Bồ tát hạnh là làm các ba la mật, như bố thí…, từ tánh Không, trong tánh Không và qua tánh Không. Đây nghĩa là công đức vô lượng

 

3/ Câu chuyện công đức giữa Bồ Đề Đạt Ma và vua Lương Võ Đế

Khi vua Lương Võ Đế hỏi ngài Đạt Ma

- Trẫm từ khi lên ngôi vua đến nay, giúp người, cứu đời, in kinh, tạo tượng, thì được bao nhiêu công đức? 

Ngài Bồ Đề Đạt Ma nói: 

- Không công đức. (Vô công đức)”

Khi ngài Đạt Ma nói “không có công đức” không có nghĩa là việc làm của Lương Võ Đế không có phước đức, không ích lợi gì. Nếu ngài hoàn toàn bác bỏ việc làm phước đức của vua, thì đây là đoạn kiến.

Việc làm tốt của vua không có công đức vì vẫn nằm trong ngã, nhân, chúng sanhthọ giả; nhưng có phước đức, được hưởng phước báo của trời người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(Xem: 140)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 243)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 270)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 288)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 347)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 276)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 347)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 451)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 416)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 359)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 447)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 665)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 518)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 540)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 630)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 827)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 894)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 923)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 901)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 784)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 772)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 773)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 870)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 879)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 997)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 771)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 665)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 769)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 872)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 776)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 780)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 897)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 927)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 881)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 927)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 960)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 950)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1145)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1011)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1736)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1112)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1248)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 987)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1264)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1168)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1173)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1336)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1630)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2090)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1403)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1144)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 994)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1102)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1146)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1570)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1330)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1353)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant