Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Phẩm Thâm Sâu

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8218)
12. Phẩm Thâm Sâu

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Thâm Sâu, thứ 12

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Làm sao suy tư được tam muội như thế?

Phật dạy Hiền Hộ:

-Nếu có trai hiền gái thảo nào nghĩ muốn suy tư tam muội này, thì khi quán sắc tướng người khác không nên chấp giữ, ngay trong âm thanh không nên chấp giữ, ngay trong mùi hương không nên chấp giữ, ngay trong mùi vị không nên chấp giữ, ngay trong cảm xúc không nên chấp giữ, ngay trong các pháp không nên chấp giữ, ngay trong các loài không nên chấp giữ, nơi tất cả chỗ không nên đắm trước. Đó gọi là khởi hạnh đại bi chân thật trong Phật pháp. Trong đó sao gọi là tam muội? Tức là ngay trong tất cả pháp, y theo chánh pháphành trì. Lúc chư Bồ Tát quán Bốn Niệm Xứ thì phải nên biết như vầy: “Quán sát thân hạnh quyết không có kiến chấp phân biệt nơi thân hạnh. Quán sát thọ hạnh cũng không có kiến chấp phân biệt nơi thọ hạnh. Quán sát tâm hạnh cũng không có kiến chấp phân biệt nơi tâm hạnh. Quán sát pháp hạnh cũng không có kiến chấp phân biệt nơi pháp hạnh”.

Bồ Tát nên quán sát suy tư tam muội như thế. Vì sao? Này Hiền Hộ! Lúc Bồ Tát đó quán thân hạnh thì đối với thân không khởi tâm suy tư phân biệt. Lúc quán thọ hạnh thì nơi thọ không khởi tâm suy tư phân biệt. Lúc quán tâm hạnh thì nơi tâm không khởi tâm suy tư phân biệt. Lúc quán pháp hạnh thì nơi pháp không khởi tâm suy tư phân biệt. Vì sao? Vì không thể nắm bắt tất cả pháp. Không thể nắm bắt được hết thảy pháp này thì làm sao có sự phân biệt suy tư? Này Hiền Hộ! Do đó, tất cả pháp không có sự phân biệt. Do không có phân biệt nên không có suy tư. Do không có suy tư, trong đó nên biết không có pháp có thể thấy biết. Này Hiền Hộ! Do không thể thấy biết nên là vô ngại, tức là trong tất cả pháp khôngchướng ngại. Đó là tam muội Bồ Tát Hiện Tiền. Bồ Tát thành tựu tam muội này thì sẽ thấy vô lượng vô số a tăng kỳ chư Phật, đều được nghe chư Phật thuyết pháp; nghe rồi hay thọ trì tất cả pháp của chư Phật Như Lai, có được tất cả tri kiến vô ngại giải thoát, cũng hay đắc được trí huệ vô ngại của chư Phật.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Lúc Bồ Tát quán sát Bốn Niệm Xứ, không có pháp để thấy, không có âm thanh để nghe. Không có thấy nghe nên không có pháp nào để có thể phân biệt, cũng không có pháp nào có thể suy tư. Không phải do đui mù câm điếc, mà vì các pháp không thể thấy được. Vì vậy, lúc quán sát chớ khởi tâm trụ vào mà nhìn đạo, suy tư đạo, tức là với các pháp khôngnghi ngờ; do không nghi ngờ nên thấy Phật Như Lai; do thấy Phật Như Lai nên mãi mãi xa lìa si mê lầm lạc; do không có si mê lầm lạc nên biết tất cả pháp không có thể thấy. Vì sao? Bồ Tát nếu có tri kiến như thế, tức giữ tri kiến đó; do giữ tri kiến đó nên giữ pháp tướng; do giữ pháp tướng nên giữ sự nghiệp; do giữ sự nghiệp nên thấy chúng sanh; do thấy chúng sanh nên thấy thọ mạng; do thấy thọ mạng nên thấy Phú Già La; do thấy Phú Già La nên thấy các ấm; do thấy các ấm nên thấy các nhập; do thấy các nhập nên thấy các giới; do thấy các giới nên thấy các tướng; do thấy các tướng nên thấy các vật; do thấy các vật nên thấy nhân kia; do thấy nhân kia nên thấy duyên; do thấy duyên nên có cầu mong chấp giữ; do có cầu mong chấp giữ nên có sanh. Vì sao? Này Hiền Hộ! Nơi tất cả pháp quyết không thể nắm bắt. Do không thể nắm bắt nên đối với tất cả pháp đó Bồ Tát không suy tư, không niệm nhớ, không thấy, không nghe. 

Này Hiền Hộ! Quyết không thể giống như ngoại đạo hay đệ tử của họ, thường chấp giữ Phú Già Langã kiến.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát quyết không thể khởi kiến chấp như thế. Tri kiến của Bồ Tát phải như thế nào? Tri kiến của Bồ Tát phải giống như tri kiến của Như Lai, quyết không thối chuyển. Tri kiến của Bồ Tát phải như tri kiến của hàng Bích Chi Phật, A La Hán. Bồ Tát phải khởi những tri kiến đó. Nhờ vậy mà Bồ Tát chẳng nhớ, chẳng nghĩ, chẳng thấy, chẳng nghe; nhờ vậy mà Bồ Tát diệt hết các vọng tưởng, tức suy tư đắc được tam muội này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Giống như hư không vốn chẳng có hình sắc, không thể quán thấy, không có ngăn ngại, không chỗ nơi nương tựa, không có nơi trụ vào, thanh tịnh, không nhiễm ô, cũng không dơ bẩn, chư Bồ Tát thấy tất cả pháp cũng như thế. Đó gọi là trong tất cả pháp hữu vi hay vô vi khôngchướng ngại, cho đến cũng không có xứ sở. Do dùng mắt thanh tịnh không chướng ngại, thấy tất cả pháp tự nhiên hiện ra. Lúc chư Bồ Tát niệm nhớ như thế thì thấy chư Phật, tướng hảo trang nghiêm thân như vàng ròng, đầy đủ oai nghi với trăm ngàn hào quang, chiếu sáng rực rỡ như trăng tròn mùa thu, đại chúng vây nhiễu xung quanh như các vì sao lấp lánh, như vua Chuyển Luân có binh chúng đông đầy, như trời Đế Thích tôn quý nhất trong bốn bộ chúng, như Đại Phạm Vương, tòa ngồi của chư thiên như sư tử chúa oai dũng hàng phục các loài cầm thú, như tiên bạch hạt bay trong hư không, như núi chúa Tu Di an trụ trong biển lớn, như núi tuyết lớn sản sanh các thang thuốc hay, như núi Thiết Vi nhiếp trì gió bão, như thủy giới gìn giữ cõi đất, như vòng gió lốc lớn thanh tịnh cõi hư không, như cung trời tráng lệ trên đảnh núi Tu Di.
Như thế, này Hiền Hộ! Chư Như Lai dùng hào quang trí đức chiếu sáng tất cả ba ngàn đại thiên cõi nước chư Phật đều như thế.

Này Hiền Hộ! Chư Bồ Tát đó ngay trong chánh quán cũng phải niệm nhớ như vầy: “Đối với tất cả pháp do chư Phật tuyên thuyết, tôi xưa đã nghe, đã nghe rồi đọc tụng, thọ trì tu hành”. Niệm nghĩ như thế rồi từ tam muội khởi dậy; y theo những pháp đã được nghe trong thiền định mà suy tư nghĩa lý, vì người tuyên thuyết.

Hiền Hộ, ông nên biết rằng đó là vua tam muội, làm lợi ích cho chư Bồ Tát, hay tích tụ các công đức, nên gọi là tất cả pháp ở thế gianxuất thế gian.
Do đó, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo muốn chứng đạo Bồ Đề vô thượng thì phải nghe tam muội này; nghe rồi viết chép đọc tụng thọ trì, tu tập suy tư, vì người khác diễn nói rộng, khiến cho diệu pháp này được lưu hànhthế gian.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Chư Phật thanh tịnh rời bụi dơ
Công đức rộng sâu không chỗ nương
Chuông trống cầm sắt các diệu âm
Muôn loại oai bị tu cúng dường
Rãi tán trầm hương hơn thế gian
Hoa tóc đẹp lạ trên bảo cái
Cúng dường tháp miếu Phật Nhiên Đăng
Vì cầu chứng tam ma địa này
Phật pháp thậm thâm khó thấy được
Khai thị Thế Đế khiến người biết
Kia như tự tánh xưa chẳng dời
Ông nên tùy thuận trí vô ngại
Như nhật nguyệt vừa ló dạng ra
Đế Thích trái ba mươi hai trời
Đầy đủ trang nghiêm báu khắp nơi
Người cầu tam muội cũng như thế
Như cõi Phạm Thiên của chư thiên
Oai nghi tịch tĩnh tròn công đức
Tinh tấn dũng mãnh không thể xưng
Người cầu tam muội cũng như thế
Lại như đấng y vương thế gian
Cấp các thuốc hay cho bịnh nhân
Tùy thuận chư Phật, tâm thanh tịnh
Xưa chưa từng rời bỏ bổn tánh
Giống như núi tuyết vua các núi
Lẫm lẫm như Chuyển Luân Thánh Vương
Cũng như bảo bối diệu trang nghiêm
Họ thấy chư Phật đủ các tướng
Như hạc vương tuyệt rõ ràng
Hư không tự tại vô ngại bay
Chư Phật thân vàng ròng như thế
Chân đệ tử Phật niệm như thế
Tam muội vô cấu đuốc trí tịnh
Hay phá các màn đen mê tối
Họ trừ tất cả tưởng sự vật
Niệm trí Phật hào quang vô ngại
Tiêu diệt dơ bẩn không sân độc
Vô minh thanh tịnh, người diệu trí
Nếu hay quán sát không mình người
Họ quyết không có các sắc tướng
Trong không nghi ngờ, sanh tịnh trí
Tất hay đoạn trừ các kiến chấp
Cũng diệt xong tưởng ấm, giới
Nghe pháp trừ não được mát trong
Tỳ kheo phải biết các Phật tử
Và các tỳ kheo ni thanh tịnh
Kia cư sĩ nam cư sĩ nữ
Nếu hay niệm đây đắc tam muội”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13694)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13769)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15078)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17693)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17107)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14430)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16741)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18613)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19041)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18849)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21157)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14791)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39165)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14401)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14696)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16138)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14692)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14892)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39106)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14107)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24497)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14371)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17993)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21442)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19683)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14816)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13877)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21892)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15232)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14527)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14036)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14346)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15657)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14306)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15004)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18535)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24659)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23099)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28544)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15070)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14111)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14631)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18282)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26508)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15180)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14831)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15192)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15134)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant