Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Công Đức Bất Cộng

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8336)
14. Phẩm Công Đức Bất Cộng

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Công Đức Bất Cộng, thứ 14

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ rằng:

-Này Hiền Hộ! Chư đại Bồ Tát đó cũng sẽ thành tựu mười tám pháp bất cộng. Sao gọi là pháp bất cộng? Từ lúc đức Như Lai thành đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, đến khi nhập Niết Bàn, trong khoảng thời gian đó, tất cả ba nghiệp của Như Lai đều lấy trí huệ làm đầu. Tất cả thân nghiệp đều tùy theo trí huệ mà hành. Tất cả khẩu nghiệp đều tùy theo trí huệ mà hành. Tất cả ý nghiệp đều tùy theo trí huệ mà hành. Tri kiến trong đời quá khứ của chư Phật không có chướng ngại. Tri kiến trong đời vị lai không có chướng ngại. Tri kiến trong đời hiện tại không có chướng ngại. Những việc làm của chư Phật không có sai lầm. Lời nói không thất thoát, ý không vọng, niệm không có vọng tưởng phân biệt, thường trụ trong tam muội, biết hết những điều đã xả. Ý dục của chư Phật không giảm, tinh tấn không giảm, thiền định không giảm, trí huệ không giảm, giải thoát không giảm, tri kiến không giảm.

Này Hiền Hộ! Đó là mười tám pháp bất cộng của chư Phật, mà đại Bồ Tát phải nên tu tập thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ chánh pháp thâm sâu khó gặp, khó tiếp nhận. Ai muốn tuyên thuyết tam muội này, phải thọ thêm mười pháp thù thắng, tức là mười lực của chư Phật. Sao gọi là mười lực? Này Hiền Hộ! Là trong Như Lai thị xứ, phi xứ lực. Như Lai đối với những việc thị xứ phi xứ, hay dùng chánh tri như thật mà biết. Này Hiền Hộ! Những việc thị xứ, phi xứ, Như Lai hay dùng chánh tri như thật mà biết, đó là lực thị xứ, phi xứ của Như Lai. Nhờ đắc được lực này, Như Lai biết nơi chân thật, trong giữa đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm xưa chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ nhất của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai tất cả chí xứ đạo lực. Nơi tất cả chỗ đạo sai khác, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật.
Này Hiền Hộ! Việc của tất cả chí xứ đạo, Như Lai hay dùng chánh trí mà biết đúng như thật, tức là lực chí xứ đạo của Như Lai. Do đắc được lực này mà Như Lai biết đến nơi chân thật, ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ hai của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai thế gian các cõi lực. Đối với các cõi sai khác vô lượngthế gian, Như Lai đều hay dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Những việc trong các cõi ở thế gian, Như Lai đều hay dùng chánh trí mà biết như thật, nên đó gọi là Như Lai thế gian các cõi lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ ba của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai tâm hạnh lực. Đối với bao loại tâm hạnh khác biệt vô lượng của chúng sanh, Như Lai đều hay dùng chánh trí mà biết như thật, nên đó gọi là lực Như Lai biết tâm hạnh chúng sanh. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ tư của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Lực Như Lai biết các căn sai khác của chúng sanh. Đối với bao loại căn tánh sai khác của chúng sanh, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Bao loại căn tánh sai khác của chúng sanh như thế, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật. Đó gọi là lực Như Lai biết căn tánh sai khác của chúng sanh. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ năm của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai thiền định lực. Đối với tất cả tam muội thiền định giải thoát, những phiền não sanh khởi Như Lai đều diệt trừ, hay dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Tất cả thiền định tam ma bạt đề giải thoát sanh khởi phiền não cho đến giải thoát, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật, nên gọi là Như Lai thiền định lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ sáu của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai nghiệp lực, tức là đối với tất cả bao loại nghiệp lực sai khác, và nghiệp lực tương lai hòa hợp được quả báo cũng có vô lượng sai khác, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Đó là các loại nghiệp sai khác, tương lai được quả báo cũng sai khác, mà Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật, nên gọi là lực Như Lai biết nghiệp lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ bảy của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai thiên nhãn lực, tức là Như Lai thường dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt người, thấy chúng sanh trong tương lai sanh đây chết kia, thọ thân đẹp đẽ, xấu xí, hiền, dữ, có sắc tướng đẹp, xấu, thô tháo, vi diệu, hoặc sanh cõi lành, hoặc sanh cõi ác; lại thấy chúng sanh tạo nghiệp hoặc lành hoặc dữ; hoặc thấy chúng sanh có thân đủ ác nghiệp, đủ khẩu ác nghiệp, đủ ý ác nghiệp, chửi mắng thánh nhân, phỉ báng chánh pháp, phá hòa hợp tăng; do đầy đủ những nghiệp ác đó, sau khi chết sanh xuống những cõi ác. Lại có chúng sanh, đầy đủ thân nghiệp lành, khẩu nghiệp lành, ý nghiệp lành, cung kính bậc thánh, tôn trọng chánh pháp, cúng dường chư Tăng, đầy đủ những hạnh nghiệp như thế, sau khi chết, sanh lên cõi trời người lành thiện. Những việc như thế, Như Lai đều biết như thật. Này Hiền Hộ! Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sanh sanh đây chết kia, cho đến sau khi chết sanh lên các cõi trời, đó là Như Lai sanh tử trí lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ tám của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai túc mạng trí lực, tức là Như Lai hay dùng các trí túc mạng, biết đời quá khứ những việc túc mạng trong đời quá khứ, biết chúng sanh sanh đây chết kia, hoặc vừa thọ sanh ở một chỗ, hoặc hai, hoặc ba, hoặc năm, hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến vô lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời, cho đến vô lượng chuyển kiếp, vô lượng định kiếp, vô lượng chuyển bất chuyển kiếp, đều biết hết cả. Như Lai lại biết như thật chỗ họ sanh ra, nhà như thế, dòng họ như thế, tên tuổi như thế, tướng mạo như thế, sanh trong đời như thế, ăn mặc như thế, việc làm như thế, lành xấu như thế, mến thích như thế, khổ vui như thế, cho đến các thọ mạng cũng đều biết rõ. Đối với những việc trong đời quá khứ, chỗ nào xả bỏ thân, rồi chỗ nào lại sanh ra, thân tướng như thế, lời nói như thế, chỗ đi qua như thế, cho đến thọ mạng, v.v… Như Lai đều biết như thật. Này Hiền Hộ! Như Lai hay dùng bao loại vô lượng trí túc mạng, biết túc mạng mà các chúng sanh đó đã từng trãi qua, trước từ một đờivô lượng đời, cho đến những việc thọ mạng trong đời quá khứ, đều biết đúng như thật, nên gọi là Như Lai túc mạng trí lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ chín của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai lậu tận lực, tức là Như Lai hay dứt tận hết tất cả các cõi, không còn các lậu hoặc, tâm huệ giải thoát, pháp tự giác đã xong. Thế nên xướng lời rằng Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau. Này Hiền Hộ! Như Lai hay dứt hết các lậu hoặc như thế, tâm huệ sáng suốt, giải thoát, tự chứng biết. Vì vậy, xướng lời rằng Ta sanh đã dứt, cho đến chẳng thọ thân sau. Như Lai biết rõ như thật, nên đó là Như Lai tận trí lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ mười của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát đọc tụng thọ trì suy tư tu tập tam muội này, thì hay nhiếp thọ mười lực của Như Lai.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Mười tám bất cộng đẳng học pháp
Mười lực trí minh chư Phật đồng
Bồ Tát tu tập diệu thiền này
Tự nhiên thành tựu hai loại đó”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13751)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25471)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13841)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15171)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17781)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17163)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14271)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13257)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14511)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19850)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16813)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18716)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19147)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18957)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21218)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14845)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39241)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14486)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19462)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14778)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16205)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14760)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15277)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14985)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15631)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39251)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14196)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24607)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14460)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19525)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18092)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21537)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17587)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14916)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13957)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13832)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14186)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21987)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16808)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15278)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14603)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14128)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14406)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15745)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14373)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18648)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23177)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28647)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15107)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14167)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14723)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18393)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26592)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15268)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14910)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15257)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15232)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant