Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Công Đức Bất Cộng

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8299)
14. Phẩm Công Đức Bất Cộng

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Công Đức Bất Cộng, thứ 14

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ rằng:

-Này Hiền Hộ! Chư đại Bồ Tát đó cũng sẽ thành tựu mười tám pháp bất cộng. Sao gọi là pháp bất cộng? Từ lúc đức Như Lai thành đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, đến khi nhập Niết Bàn, trong khoảng thời gian đó, tất cả ba nghiệp của Như Lai đều lấy trí huệ làm đầu. Tất cả thân nghiệp đều tùy theo trí huệ mà hành. Tất cả khẩu nghiệp đều tùy theo trí huệ mà hành. Tất cả ý nghiệp đều tùy theo trí huệ mà hành. Tri kiến trong đời quá khứ của chư Phật không có chướng ngại. Tri kiến trong đời vị lai không có chướng ngại. Tri kiến trong đời hiện tại không có chướng ngại. Những việc làm của chư Phật không có sai lầm. Lời nói không thất thoát, ý không vọng, niệm không có vọng tưởng phân biệt, thường trụ trong tam muội, biết hết những điều đã xả. Ý dục của chư Phật không giảm, tinh tấn không giảm, thiền định không giảm, trí huệ không giảm, giải thoát không giảm, tri kiến không giảm.

Này Hiền Hộ! Đó là mười tám pháp bất cộng của chư Phật, mà đại Bồ Tát phải nên tu tập thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ chánh pháp thâm sâu khó gặp, khó tiếp nhận. Ai muốn tuyên thuyết tam muội này, phải thọ thêm mười pháp thù thắng, tức là mười lực của chư Phật. Sao gọi là mười lực? Này Hiền Hộ! Là trong Như Lai thị xứ, phi xứ lực. Như Lai đối với những việc thị xứ phi xứ, hay dùng chánh tri như thật mà biết. Này Hiền Hộ! Những việc thị xứ, phi xứ, Như Lai hay dùng chánh tri như thật mà biết, đó là lực thị xứ, phi xứ của Như Lai. Nhờ đắc được lực này, Như Lai biết nơi chân thật, trong giữa đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm xưa chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ nhất của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai tất cả chí xứ đạo lực. Nơi tất cả chỗ đạo sai khác, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật.
Này Hiền Hộ! Việc của tất cả chí xứ đạo, Như Lai hay dùng chánh trí mà biết đúng như thật, tức là lực chí xứ đạo của Như Lai. Do đắc được lực này mà Như Lai biết đến nơi chân thật, ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ hai của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai thế gian các cõi lực. Đối với các cõi sai khác vô lượngthế gian, Như Lai đều hay dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Những việc trong các cõi ở thế gian, Như Lai đều hay dùng chánh trí mà biết như thật, nên đó gọi là Như Lai thế gian các cõi lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ ba của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai tâm hạnh lực. Đối với bao loại tâm hạnh khác biệt vô lượng của chúng sanh, Như Lai đều hay dùng chánh trí mà biết như thật, nên đó gọi là lực Như Lai biết tâm hạnh chúng sanh. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ tư của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Lực Như Lai biết các căn sai khác của chúng sanh. Đối với bao loại căn tánh sai khác của chúng sanh, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Bao loại căn tánh sai khác của chúng sanh như thế, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật. Đó gọi là lực Như Lai biết căn tánh sai khác của chúng sanh. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ năm của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Là trong Như Lai thiền định lực. Đối với tất cả tam muội thiền định giải thoát, những phiền não sanh khởi Như Lai đều diệt trừ, hay dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Tất cả thiền định tam ma bạt đề giải thoát sanh khởi phiền não cho đến giải thoát, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật, nên gọi là Như Lai thiền định lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ sáu của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai nghiệp lực, tức là đối với tất cả bao loại nghiệp lực sai khác, và nghiệp lực tương lai hòa hợp được quả báo cũng có vô lượng sai khác, Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật. Này Hiền Hộ! Đó là các loại nghiệp sai khác, tương lai được quả báo cũng sai khác, mà Như Lai đều dùng chánh trí mà biết như thật, nên gọi là lực Như Lai biết nghiệp lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ bảy của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai thiên nhãn lực, tức là Như Lai thường dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt người, thấy chúng sanh trong tương lai sanh đây chết kia, thọ thân đẹp đẽ, xấu xí, hiền, dữ, có sắc tướng đẹp, xấu, thô tháo, vi diệu, hoặc sanh cõi lành, hoặc sanh cõi ác; lại thấy chúng sanh tạo nghiệp hoặc lành hoặc dữ; hoặc thấy chúng sanh có thân đủ ác nghiệp, đủ khẩu ác nghiệp, đủ ý ác nghiệp, chửi mắng thánh nhân, phỉ báng chánh pháp, phá hòa hợp tăng; do đầy đủ những nghiệp ác đó, sau khi chết sanh xuống những cõi ác. Lại có chúng sanh, đầy đủ thân nghiệp lành, khẩu nghiệp lành, ý nghiệp lành, cung kính bậc thánh, tôn trọng chánh pháp, cúng dường chư Tăng, đầy đủ những hạnh nghiệp như thế, sau khi chết, sanh lên cõi trời người lành thiện. Những việc như thế, Như Lai đều biết như thật. Này Hiền Hộ! Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sanh sanh đây chết kia, cho đến sau khi chết sanh lên các cõi trời, đó là Như Lai sanh tử trí lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ tám của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai túc mạng trí lực, tức là Như Lai hay dùng các trí túc mạng, biết đời quá khứ những việc túc mạng trong đời quá khứ, biết chúng sanh sanh đây chết kia, hoặc vừa thọ sanh ở một chỗ, hoặc hai, hoặc ba, hoặc năm, hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến vô lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời, cho đến vô lượng chuyển kiếp, vô lượng định kiếp, vô lượng chuyển bất chuyển kiếp, đều biết hết cả. Như Lai lại biết như thật chỗ họ sanh ra, nhà như thế, dòng họ như thế, tên tuổi như thế, tướng mạo như thế, sanh trong đời như thế, ăn mặc như thế, việc làm như thế, lành xấu như thế, mến thích như thế, khổ vui như thế, cho đến các thọ mạng cũng đều biết rõ. Đối với những việc trong đời quá khứ, chỗ nào xả bỏ thân, rồi chỗ nào lại sanh ra, thân tướng như thế, lời nói như thế, chỗ đi qua như thế, cho đến thọ mạng, v.v… Như Lai đều biết như thật. Này Hiền Hộ! Như Lai hay dùng bao loại vô lượng trí túc mạng, biết túc mạng mà các chúng sanh đó đã từng trãi qua, trước từ một đờivô lượng đời, cho đến những việc thọ mạng trong đời quá khứ, đều biết đúng như thật, nên gọi là Như Lai túc mạng trí lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ chín của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như Lai lậu tận lực, tức là Như Lai hay dứt tận hết tất cả các cõi, không còn các lậu hoặc, tâm huệ giải thoát, pháp tự giác đã xong. Thế nên xướng lời rằng Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau. Này Hiền Hộ! Như Lai hay dứt hết các lậu hoặc như thế, tâm huệ sáng suốt, giải thoát, tự chứng biết. Vì vậy, xướng lời rằng Ta sanh đã dứt, cho đến chẳng thọ thân sau. Như Lai biết rõ như thật, nên đó là Như Lai tận trí lực. Do đắc được lực này nên biết đến chỗ chân thật; ở trong đại chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháptrời Đại Phạm chưa từng chuyển. Không có sa môn, bà la môn, trời, Phạm, Ma, người nào có thể chuyển được như thế. Này Hiền Hộ! Đó là trí lực thứ mười của Như Lai. Đại Bồ Tát nên tu học thành tựu đầy đủ.

Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát đọc tụng thọ trì suy tư tu tập tam muội này, thì hay nhiếp thọ mười lực của Như Lai.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Mười tám bất cộng đẳng học pháp
Mười lực trí minh chư Phật đồng
Bồ Tát tu tập diệu thiền này
Tự nhiên thành tựu hai loại đó”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22320)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16035)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15046)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18977)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14458)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18643)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14442)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13613)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13564)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11837)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13282)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13681)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13954)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13264)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15041)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16174)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11101)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16472)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11934)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17615)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12889)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13729)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12871)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14870)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16406)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13144)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12111)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12785)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12934)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12802)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14193)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14145)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16509)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12402)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14407)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11343)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11048)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13206)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13903)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13178)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13019)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13520)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12749)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10247)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13982)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10248)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13725)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16281)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11991)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12997)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11670)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12697)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10813)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11020)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10960)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11913)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12786)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11081)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12637)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11347)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant