Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})

23 Tháng Ba 201513:04(Xem: 10899)
Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})
Kinh DHAMMIKA SUTTA (AN VI.54)

Tỳ Kheo Ni Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki


Kinh Dhammika SuttaThuở xưa[1] khi các người đi buôn bằng đường biển dong thuyền ra biển, họ mang theo một con chim để nhắm hướng đất liền. Khi thuyền ở chỗ không thấy đất liền, họ thả con chim ra; con chim bay về các hướng đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và xung quanh. Và nếu không thấy đất liền, con chim bay trở lại tàu; còn nếu thấy đất liền gần đó, nó sẽ đi luôn thật. [2]

...

Ngày xưa[3] có một cây vả chúa tên là Kiên Định, thuộc về vua Koravya; cây có năm cành rộng cho bóng mát rất dễ chịu. Tàng cây toả rộng cả trăm dặm, rễ lan ra chừng bốn mươi dặm. Quả của cây này rất tuyệt: lớn như cái thúng - mọng ngon như vậy – và trong như mật ong.

Vua và các cung nữ hưởng một phần; quân đội hưởng một phần; dân trong thành và trong thôn làng hưởng một phần; các bà la mônnhà tu khổ hạnh hưởng một phần; chim và thú hưởng một phần. Không ai canh giữ quả của cây vả này cả, và cũng không ai hãm hại lẫn nhau vì quả của cây này.

Nhưng có một người kia đi đến, ăn quả của cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi. Vị thiên nữ trú nơi cây Kiên Định thầm nghĩ: “Thật kinh khủng, thật lạ lùng, có kẻ lại xấu xa cho đến nổi dám ăn quả cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi! Vậy để cây Kiên Định không còn ra quả nữa xem sao cho biết?” Và cây vả Kiên Định không còn ra quả nữa.

Thế rồi vua Koravya đến chỗ Thiên Chủ Đế Thích (Sakka), gặp ngài và nói: “Chắc Ngài đã biết rồi, Kiên Định - cây vả chúa - không còn ra trái nữa?” Đế Thích bèn hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, làm cây vả chúa Kiên Định ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn. Vị thiên trú nơi cây Kiên Định buồn rầu, khóc lóc, đứng khóc một bên cây, nước mắt đầm đìa.

Thiên Chủ Đế Thích đi đến chỗ vị thiên đang đứng, đến đó rồi nói rằng: “Này thiên nữ, cớ sao mà bà lại buồn rầu, khóc lóc, đứng một bên cây nước mắt đầm đìa?”

“Thưa Ngài, đó là vì một trận mưa to gió lớn vừa ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Này thiên nữ, có phải bà đang trì Pháp của loài cây khi việc này xảy ra không?”

“Nhưng thưa Ngài, thế nào là một cái cây trì Pháp của loài cây?”

“Như thế này, thiên nữ: những người cắt rễ lấy rễ cây; những người lột vỏ cây lấy vỏ; những người hái lá lấy lá; những người hái hoa lấy hoa; những người hái trái lấy trái – không một điều nào đủ là cái cớ để cho một vị thiên chỉ nghĩ đến mình hay rầu rĩ cả. Này thiên nữ, một cái cây trì Pháp của loài cây là như vậy.”

“Vậy thì thưa Ngài, con không đang trì Pháp của loài cây khi mưa to gió lớn ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Nếu như vậy thì, thiên nữ, nếu như bà trì Pháp của loài cây, chỗ ở của bà có thể sẽ hoàn nguyên như cũ.”

“Thưa Ngài, tôi sẽ xin trì Pháp của loài cây! Mong trú xứ của tôi được hoàn nguyên như cũ.”

Khi ấy, Thiên Chủ Đế Thích hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, nâng cây vả chúa Kiên Định dậy, rễ cây lành lặn hoàn toàn.

...


Chú thích của Andrew Olendzki:

[1] Đoạn này cũng có trong DN 11. - Ed

[2] Từ Pali ở đây là tathagatako (E.M. Hare dịch trong bản dịch của PTS là "gone for good"; Andrew Olendzki dich là “truly gone”,) câu chuyện này giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều vì sau Đức Phật lại dùng danh hiệu “Tathagata” để tự xưng.

Tên của Ngài là Siddhattha; là một sa môn khổ hạnh Ngài lấy tên của tộc họ bên thân mẫu của Ngài là Gotama; Ngài được người đương thời biết đến như một bậc hiền trí dưới tên của tộc họ của thân phụ ngài, Sakyamuni; và khi giác ngộ, ngài được gọi là Buddha, Bậc Giác Ngộ. Những người theo ngài thường gọi Ngài là Bhagavant, hay “Thế Tôn,” nhưng tên mà ngài luôn dùng để tự xưng lại là Tathagata (Việt dịch là Như Lai.)

Tathagata là một từ khó dịch ra tiếng Anh. Tatha nghĩa là ‘như vậy,’ (so, thus, in this way); và gata là động tính từ của động từ đi, và có nghĩa là “đã đi rồi”, “khứ” (gone.) Chúng ta thường thấy từ này được dịch ra tiếng Anh là “Thus-gone” hay “the Thus-Gone” (‘đã đi như vậy’, ‘bậc đã đi như vậy’ tức là ‘như khứ’.) Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm) liệt kê 8 cách dịch khác nhau cho từ này (Digha Atthakatha 1.59), trong đó đưa ra những cách phân tích gốc từ rất sáng tạo.

Tôi (Andrew Olendzki) thừa nhận chưa bao giờ thật sự hiểu ý nghĩa từ Tathagata cho đến khi tôi đọc câu chuyện này. Với hình ảnh con chim được thả ra để tìm bờ bên kia, nhiều việc trở nên sáng tỏ.

Trước hết, chúng ta cần nhận ra 2 cách thành ngữ này được sử dụng: một chỉ cho đức Phật như là người không còn sinh lại nữa, và hai là diễn tả tâm thức của người đã giác ngộ vẫn còn trụ thế đối với các trần.

Có lúc một vị A La Hán qua đời, Mara – như một đám mây đen – đi tìm xem tâm thức của vị A La Hán đang tái lập (sinh) ở đâu. Trong trường hợp đó, đức Phật nói rằng tâm thức của A La Hán “không bám trụ vào đâu nữa” (ví dụ SN 22.87.) Theo ý nghĩa này, đức Phật rõ ràng dùng danh hiệu “Tathagata” với ý nghĩa ngài sẽ không còn phải sinh lại nữa – như con chim rời chiếc thuyền không còn quay trở lại, tâm thức của ngài không đậu lại bất cứ cảnh giới nào để bị ràng buộc vào một thân khác.

Nhưng cũng có một nghĩa khác, trong đó thành ngữ Tathagata diễn đạt một cách thích đáng bản chất của tâm đã giải thoát ở trong hiện đời. Khi người hỏi cố tìm cách để bắt đức Phật phải trả lời tâm thức ngài có còn sau khi chết không, ngài quở họ qua việc đáp rằng chính ngay trong đời này tâm thức của Tathagata còn không thể dò được, vì không nằm trong phạm trù đo lường thì làm sao các khái niệm còn, không còn có thể áp dụng được để đo lường tâm thức Như Lai (ví dụ SN 1074.) Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức) – như một con chim đã thoát, không còn quay trở về bám đậu vào thuyền nữa.

Chú thích của người dịch tiếng Việt: từ Như Lai dịch hay hơn là từ tiếng Anh vì, bao hàm được ý nghĩa vô thỉ vô chung (vô khư vô lai). Cách giải thích của Olendzki chỉ nói được một mặt là ‘đi hẳn, không quay trở lại’ nhưng không giải thích chữ ‘such’, ‘so’, ‘in this way’ (Như.)

[3] Đây có thể là một câu chuyện có thật – có lẽ Kiên Định là tên của cả hành tinh, không phải chỉ là một cái cây thần thoại. Làm sao chúng ta có thể giải thích khác hơn về đức nhẫn lớn lao và sự làm lợi ích không ngừng của trái đất trước sự tham lamphá hoạicon người đã làm đối với trái đất? Tôi (Olendzki) nghĩ rằng Gaia, nữ thần ngự trị trái Đất dễ thương của chúng ta đã được Sakka (Đế Thích) dạy cho bài học này từ thuở xa xưa, và với đức Đại Nhẫn đã chịu đựngtha thứ cho những điều tệ hại nhất mà chúng ta đã làm để đáp lại những ân huệ của bà. Nếu đó là sự thật, bà sẽ không báo cho chúng ta biết khi chúng ta đã đi quá xa – vì cho rằng đó là phần trách nhiệm của chúng ta.

Như mọi chuyện Phật giáo khác, truyện này mang nhiều ý nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà cây đại thụ này có năm nhánh, và từ dùng cho mỗi phần quả là khandha - từ dùng để chỉ cho năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức.) Người ăn thoả thích quả của mình khởi lòng tham, và sự khát khao, sự bẻ cành của người này dụ cho sân, giận và ghét bỏ. Đây là hai trong ba gốc rễ của độc từ đó mà các hành động bất thiện phát sinh (gốc độc thứ ba là si – có mặt khi tham, sân có mặt.) Do đó, toàn bộ hình ảnh này đại diện cho một người bị người khác đối xử xấu, hay phải đối diện với sự nhen nhúm của các kết sử của chính mình xúi giục mình làm hại.

Xin để ý câu truyện không dạy “người xấu ác” về sự rồ dại của mình, vì thường ta không thể làm gì để tránh những kẻ này, hay những khuynh hướng này ở trong ta. Câu truyện nhắm dạy về phản ứng của chúng ta trước những lỗi lầm. Sakkha (Đế Thích) cho rằng phản ứng nóng nảy, hờn dỗi trước sự lăng mạ là đứng ở chỗ coi mình là trung tâm điểm, và câu trả lời duy nhất thích hợp trong trường hợp này là lòng từ và sự rộng lượng - đối với mình cũng như với kẻ khác. Như Kinh Pháp Cú cũng đã dạy: “Hận thù diệt hận thù, đời này không từng có. Từ bi diệt hận thù, là định luật nghìn thù. [Dhp 5].

Bài pháp này được giảng cho Dhammika, một tì khưu than thở về cách đối xử của một số người. Đức phật soi lại tình trạng cho Dhammika, cho thấy bản thân ông không đối xử tốt với các bạn đồng tu. Đây là một dịp để đức Phật dạy cho Dhammika, bằng câu chuyện ẩn dụ, “pháp của một sa môn” được tóm tắt trong câu “không sỉ nhục lại người đã sỉ nhục mình, không giận lại người giận mình, không xúc phạm lại người đã xúc phạm mình.”

(TKN Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki. Xin chỉ dùng để phát tặng không, không bán.)
(Source: www.dieukhong.org)


Nguyên văn bản tiếng Anh:
AN 6.54 PTS: A iii 366
Dhammika Sutta:

Dhammika (excerpt) translated from the Pali by Andrew Olendzki © 2005–2012

...

In[1] ancient times when seafaring merchants put to sea in ships, they took with them a bird to sight land. When the ship was out of sight of land, they released the bird; and it flew eastward and westward, northward and southward, upward and all around. And if the bird saw no land, it returned to the ship; but if the bird sighted land nearby, it was truly gone.[2]

...

Once upon a time[3] there was a royal fig tree called Steadfast, belonging to king Koravya, whose five outstretched branches provided a cool and pleasing shade. Its girth extended a hundred miles, and its roots spread out for forty miles. And the fruits of that tree were indeed great: As large as harvest baskets — such were its succulent fruits — and as clear as the honey of bees.

One portion was enjoyed by the king, along with his household of women; one portion was enjoyed by the army; one portion was enjoyed by the people of the town and village; one portion was enjoyed by brahmans and ascetics; and one portion was enjoyed by the beasts and birds. Nobody guarded the fruits of that royal tree, and neither did anyone harm one another for the sake of its fruits.

But then a certain man came along who fed upon as much of Steadfast's fruits as he wanted, broke off a branch, and wandered on his way. And the deva who dwelled in Steadfast thought to herself: "It is astonishing, it is truly amazing, that such an evil man would dare to feed upon as much of Steadfast's fruits as he wants, break off a branch, and then wander on his way! Now, what if Steadfast were in the future to bear no more fruit?" And so the royal fig tree Steadfast bore no more fruit.

So then king Koravya went up to where Sakka, chief among the gods, was dwelling, and having approached said this: "Surely you must know, sire, that Steadfast, the royal fig tree, no longer bears fruit?" And then Sakka created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and toppled the royal fig tree Steadfast, uprooting it entirely. And then the deva who dwelled in Steadfast grieved, lamented, and stood weeping on one side with a face full of tears.

And then Sakka, chief among the gods, went up to where the deva was standing, and having approached said this: "Why is it, deva, that you grieve and lament and stand on one side with a face full of tears?" "It is because, sire, a mighty wind and rain has come and toppled my abode, uprooting it entirely."

"And were you, deva, upholding the dhamma of trees when this happened?" "But how is it, sire, that a tree upholds the dhamma of trees?"

"Like this, deva: Root-cutters take the root of the tree; bark-strippers take the bark; leaf-pickers take the leaves; flower-pickers take the flowers; fruit-pickers take the fruits — and none of this is reason enough for a deva to think only of herself or become morose. Thus it is, deva, that a tree upholds the dhamma of trees."

"Then indeed, sire, I was not upholding the dhamma of trees when the mighty wind and rain came and toppled my abode, uprooting it entirely." "If it were the case, deva, that you were to uphold the dhamma of trees, it may be that your abode might be as it was before." "I will indeed, sire, uphold the dhamma of trees! May my abode be as it was before!"

And then Sakka, chief among the gods, created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and raised up the royal fig tree Steadfast, and its roots were entirely healed.

...

Notes

1.
This passage also appears at DN 11. — Ed.
2.
The word used here for "truly gone" is tathagatako (translated by E.M. Hare in the PTS edition as "gone for good"), and this story helps us considerably in understanding how the Buddha used the epithet "Tathagata" to describe himself.

His given name was Siddhattha; as a wandering ascetic he went by his mother's clan name, Gotama; he was known throughout his world as the sage of his father's family, or Sakyamuni; and when enlightened he became known as Buddha, the Awakened One. His followers most often referred to him as Bhagavant, or "Blessed One," but the name he almost always used for himself was Tathagata.

Tathagata has always been an awkward word to translate. Tatha on its own means something like "so," "thus," or "in this way"; and gata is the past participle of the verb to go, and simply means "gone." We therefore often find the phrase translated in the texts as "Thus-gone" or "the Thus-Gone one." The commentator Buddhaghosa lists eight different ways the word can be construed (Digha Atthakatha 1.59), and in the process engages in some characteristically creative etymology.

I admit to having never really understood the import of the term Tathagata — until I came across this story. With the image of the bird released by the sailors, searching for land upon which to alight, a number of things began to fall into place.

To begin with we should recognize two ways the expression is used: one referring to the Buddha as a being who will no longer be reborn, and the other describing how the consciousness of an awakened person still in this world relates to the object of experience.

Sometimes when one of the arahants passes away, Mara like a dark cloud can be seen searching for where their consciousness has become re-established (i.e., reborn). In such cases, the Buddha says of the arahant that their consciousness is "not stationed anew anywhere" (e.g., SN 22.87). In this sense the Buddha is clearly using the epithet "Tathagata" to mean that he will not be reborn again — like the bird leaving the ship without returning, his consciousness does not alight again in any of the worlds to become re-bound with another body.

But there is also a sense in which the phrase aptly describes the nature of the awakened mind here in this life. When his questioners try to pin the Buddha down about whether his consciousness survives after death, he rebukes them by saying that even here and now the consciousness of a Tathagata is untraceable, since there is no means of measuring or knowing it (e.g., Sn 1074). The awakened mind is said to be unattached to anything in the world — like a bird that does not alight upon and thus get bound to any object of experience.

In fact learning to un-attach the mind from its fetters is a good deal of what insight meditation training is all about. The Satipatthana Sutta, for example, (the main text that gives instructions for insight meditation) states that when practicing mindfulness properly a person "abides independent, not clinging to anything in the world" (MN 10). The householder Anathapindika, just before his death, received instructions from Sariputta urging him to train himself thus: "I will not cling to what is seen, heard, sensed, cognized, encountered, sought after, and examined by the mind; my consciousness will not be dependent on any of that" (MN 143).

All this combines to suggest that a crucial aspect of the Buddha's teaching is the notion of consciousness being unattached to mental or physical objects. In moment-to-moment practice this means letting go of attachments and letting experience be simply what it is. Perhaps with proper practice we can live as a bird freely circling the ship of our body and our world, rather than as one imprisoned in a cage on its deck.

3.
Perhaps this is a true story — perhaps Steadfast is a name for the entire planet, not just a mythological tree. How else might we explain the earth's great forbearance and continued beneficence in the face of the rapacity and destruction we have wrought upon her? I think Gaia, the deity inhabiting the abode of our lovely Earth, was taught this lesson by Sakka in ancient times, and has with great patience and dignity put up with the worst we can render. If this is true, then she will not give us a sign when we have gone too far — perceiving this is our own responsibility.

Like every Buddhist story, this one works on many levels simultaneously. It is no accident that the great tree has five branches, or that the word used for each portion is khandha — the term designating the five aggregates of form, feeling, perception, formations and consciousness. The man eating his fill of fruit is manifesting greed, craving or desire, and his breaking of the branch represents hatred, anger or aversion. These are two of the three poisonous roots out of which all unwholesome action arises (the third — ignorance — is always present when others occur). Thus the entire image is representative of a person being wronged by another or facing the eruption of their own latent tendencies for harmful action.

Notice that the story does not teach the "evil man" the folly of his ways, since there is often nothing one can do to avoid such people or such inclinations in oneself. The teaching is more about our response to transgression. Sakka's point is that it is self-centered to react petulantly to such an affront, and that the only suitable response is with kindness and generosity — to oneself as well as to others. As the Dhammapada so aptly says, "Never at any time in this world are hostilities resolved by hostility; but by kindness they are resolved — this is an eternal truth" [Dhp 5].

This teaching is given to Dhammika, a monk who complains of his treatment by certain laypeople. The Buddha reflects the situation back upon Dhammika, who as it turns out does not treat his fellow monks very well. It is an occasion to teach Dhammika, with the help of this story, the "dhamma of a recluse," which boils down to "not returning the insult of the insulter, the anger of the angry or the abuse of the abuser."








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21999)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15876)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14900)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18733)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14314)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18449)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14271)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13422)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13400)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11692)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13108)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13542)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13806)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13122)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14884)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16050)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10969)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16285)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11734)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17420)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12771)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13566)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12765)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14759)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16219)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13001)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11967)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12628)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12758)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12666)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14006)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 13982)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16332)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12263)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14264)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11129)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 13095)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13764)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13035)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12865)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13378)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12566)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10111)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13756)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10113)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13565)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16142)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11851)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12839)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11540)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12559)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10680)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10843)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10838)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11782)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12630)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10964)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12490)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11211)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12397)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant