- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨM AI THÁN THỨ BA
(Hán bộ phần sau quyển thứ hai)
Ông
Thuần-Đà ra đi không bao lâu, khắp cả đại-địa nhẫn đến
trời phạm thiên bỗng chấn động sáu cách (36). Phàm địa
động có hai: đại động và tiểu động. Có tiếng nhỏ,
chỉ riêng nơi mặt đất chấn động, chỉ động một chiều,
đây là tiểu địa động. Có tiếng lớn, cả đất liền
cùng núi biển sông rạch cây cối đều động, động xoay
nhiều chiều, lúc động có thể làm động cả tâm chúng sanh,
đây là đại địa động. Đức Phật ra đời có những
lần đại địa động: Từ cung trời Đâu-Suất giáng thần
xuống nhơn gian, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp
luân, và nhập Niết-bàn. Giờ đây Như-Lai sắp nhập Niết-bàn
nên có điềm đại-địa-động như vậy.
Thiên-Long
bát bộ (37) cả mình rởn ốc, đồng thanh buồn khóc mà nói
kệ rằng :
Cúi
đầu lạy Thế-Tôn
Chúng
con đồng khuyến thỉnh,
Chúng
con mà xa Phật
Thời
không ai cứu hộ.
Đức
Phật nhập Niết-bàn
Chúng
con chìm biển khổ
Khác
nào nghé mất mẹ
Sầu
lo rất buồn khổ,
Nghèo
cùng không ai giúp
Cũng
như người bịnh ngặt
Không
lương y săn sóc
Tự
ý ăn uống lầm
Chúng
sanh bịnh phiền não
Thường
bị kiến-chấp hại
Xa
lìa đấng y-vương (38)
Uống
ăn thuốc tà độc
Ngửa
mong Phật Thế-Tôn
Chớ
bỏ rơi chúng con.
Ví
như mặt trời mọc
Quang
minh rất sáng chói
Đã
có thể tự soi
Cũng
từ tất cả tối,
Phật
phóng thần thông quang
Trừ
khổ não chúng sanh
Ở
giữa các chúng hội
Ví
như núi Tu-di (39)
Bạch
Tjhế-Tôn ! Ví như quốc-vương sanh các vương tử diện mạo
xinh đẹp, Vua rất yêu mến dạy cho rành nghề văn nghiệp
võ rồi sai người đem giết.
Ngày
nay chúng con là con của Phật, nhờ Phật dạy dổ có đủ
chánh kiến, xin chớ bỏ con. Nếu bỏ chúng con thời chúng
con khác nào các vương tử kia. Ngửa mong đức Phật ở luôn
nơi đời, chớ nhập niết-bàn.
Bạch
Thế-tôn ! Ví như có người học giỏi nơi các bộ luận rồi lại sanh lòng sợ đối với các bộ luận ấy, cũng thế,
đức Như-Lai thông đạt các pháp mà lại sợ các pháp. Nếu
được đức Như-Lai ở luôn nơi đời giảng pháp cam lồ cho
chúng sanh được thấm nhuần đầy đủ, thời các chúng sanh
đây chẳng còn lại sợ phải bị sa vào địa ngục.
Bạch
Thế-tôn ! Ví như có người mới vừa học làm nghề, kế
bị quan bắt giam vào ngục, có hỏi thăm hiện tại thế nào
? Người ấy tất đáp: Nay tôi rất buồn khổ. Nếu người
ấy được thả, thời được an vui. Cũng thế, đức Thế-Tôn
vì chúng con mà tu các khổ hạnh, hiện nay chúng con chưa được
thoát khỏi sanh tử, thế sao đức Như-Lai đặng thọ hưởng
an vui.
Bạch
Thế-Tôn ! Ví như y vương hiểu rành các phương thuốc,
đem phương bí truyền dạy riêng cho con mình, mà khôngh dạy
cho các trò khác. Cũng thế, đức Như-Lai đem tạng pháp thậm
thâm bí mật dạy riêng cho Văn-Thù Sư-Lợi, mà chẳng thưong
chẳng dạy cho chúng con. Như ông thầy thuốc kia vì lòng còn
riêng tư thân sơ, nên sự dạy không bình đẳng rộng rãi,
chỉ dạy riêng cho con mình môn bí-phương, mà không truyền
cho các trò khác. Đức Như-Lai trọn không có lòng thân sơ
tư vị, tại sao chẳng dạy dỗ chúng con. Ngửa mong đức Phật
ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết-bàn.
Bạch
đức Thế-Tôn ! Ví như những người già trẻ bịnh khổ đi
nơi đường hiểm rất khốn khó gian lao, có bực dị nhơn
thấy vậy xót thương bèn chỉ cho con đường tốt bằng thẳng.
Chúng con cũng như vậy. Người trẻ dụ cho những kẻ chưa
tăng trưởng pháp thân, người già dụ cho những kẻ nặng
phiền não, bịnh khổ dụ cho sanh tử, đường hiểm nạn dụ
cho tam giới. Cúi xin đức Như-Lai chỉ dẫn con đường chơn
chánh giải thoát cho chúng con, ở lâu nơi đời, chớ nhập
Niết-bàn.”
Đức
Thế-Tôn bảo các Tỳ-kheo :” Các thầy đừng ưu sầu khóc
kể như hàng trời người phàm phu kia.
Các
thầy phải siêng năng tinh tấn giữ vững chánh niệm”.
Nghe
đức Phật phán như vậy, hàng trời người bát bộ liền
nín khóc.
Đức
Thế-Tôn vì đại chúng mà nói kệ rằng :
Đại chúng phải sáng suốt
Chẳng nên quá sầu khổ.
Chư Phật đều vậy cả
Vì thế nên im lặng,
Thích nơi hạnh tinh tấn
Gìn lòng giữ chánh niệm
Xa lìa các điều quấy
Hớn hở được an vui.
Lại
nầy các thầy Tỳ-kheo ! Nếu có chỗ nào nghi ngờ đều phải
bạch hỏi. Ở trong những pháp không, bất không, thường, vô
thường, khổ, phi khổ, y, phi y, khứ, bất khứ, quy, phi quy,
hằng, phi hằng, đoạn, phi đoạn, chúng sanh, phi chúng sanh,
hữu, vô hữu, thiệt, bất thiệt, chơn, bất chơn, diệt, bất
diệt, mật, bất mật, nhị, bất nhị, v.v… nếu còn nghi
ngờ nay nên bạch hỏi, Như-Lai sẽ giải quyết cho. Như-Lai
trứơc nói pháp cam-lộ cho các thầy rồi, sau mới nhập Niết-bàn.
Nầy
các thầy Tỳ-kheo ! Phật ra đời là khó, thân người
khó được, gặp Phật sanh tín- tâm, việc đây cũng khó, nhẫn
sự khó nhẫn lại là khó hơn, đầy đủ giới hạnh chứng
quả A-La-Hán (40) cũng là việc khó. Như tìm cát vàng cùng
hoa ưu-đàm-bát-la.
Các
thầy khỏi bát nạn được thân người là sự khó, nay gặp
Như-Lai chẳng nên để luống uổng. Ngày xưa, Như-Lai tu nhiều
hạnh khổ, nay được phương tiện vô thượng như thế, trong
vô lượng kiếp vì các thầy mà xả thí thân thịt tay chơn
đầu mắt tủy não. Ví thế các thầy chẳng nên phóng dật.
Nầy
các thầy Tỳ-kheo ! Thành báu chánh pháp trang nghiêm, đầy
đủ các thứ công đức trân bảo, giới, định, và trí huệ
làm tường thành và hào thành. Nay các thầy gặp được thành
báu Phật pháp, chẳng nên lượm
lấy những vật hư ngụy. Ví như nhà thương mãi gặp thành
chơn bảo, lượm lấy ngói sạn rồi trở về nhà. Các
thầy chớ để tâm hạ liệt, cam đủ nơi chút ít pháp mọn.
Các thầy dầu xuất gia mà không ham mộ pháp đại thừa. Thân
các thầy dầu được đắp cà sa mà tâm chưa được nhuộm
pháp đại thừa thanh tịnh. Các thầy dầu khất thực ở nhiều
nơi mà chưa từng khất pháp-thực đại- thừa. Các thầy dầu
cạo bỏ râu tóc mà chưa vì chánh pháp cạo sạch kiết-sử.
Nầy
các thầy Tỳ-kheo ! Nay Như-Lai bảo thiệt các thầy, hiện
nay Như-Lai đại chúng hòa hiệp pháp tánh chơn thiệt chẳng
điên đảo. Vì thế các thầy phải nhiếp tâm dõng mãnh tinh
tấn xô dẹp các kiết sử. Khi mặt trời Phật huệ lặn mất
rồi, các thầy sẽ bị vô minh trùm đậy.
Nầy
các thầy ! Ví như những cỏ thuốc trên mặt đất để chúng
sanh dùng, Phật pháp cũng vậy, sanh ra pháp vị cam lồ diệu
thiện làm thuốc hay chữa bịnh phiền não của chúng sanh.
Nay Như-Lai sẽ làm cho tất cả chúng sanh cùng bốn bộ chúng
đều được an trụ trong tạng bí mật. Cũng như chữ
y, nếu ba điểm đứng chung hàng, hoặc đứng ngay, hoặc khác
nhau đều không thành chữ y. Ba điểm phải như ba con mắt
trên mặt Đại-Tự-Tại-Thiên mới thành chữ y. Như-Lai cũng
thế, pháp giải thoát không phải Niết- bàn, thân Như-Lai không
phải Niết-bàn, ma-ha-bát-nhã cũng không phải Niết-bàn, ba
pháp đều khác nhau cũng không phải Niết-bàn. Như-Lai này
an trụ ba pháp ấy, vì chúng sanh mà nói là nhập Niết-bàn,
như chữ y trong đời.”
Các
Tỳ-kheo nghe đức Phật Thế-Tôn nói quyết định sẽ nhập
Niết-bàn, ai nấy đều lo rầu, cả mình rởn ốc, lệ tràn
đầy mắt, cúi lạy chơn Phật mà bạch rằng :’ Đức Thế-Tôn
khéo dạy vô thường, khổ, không, vô-ngã.
Bạch
Thế-Tôn ! Ví như các dấu chưn của muông thú, dấu chưn
voi là hơn cả. Vô thường quán cũng lại như vậy là pháp
quán tưởng bực nhứt trong các pháp quán tưởng. Nếu
ai tinh cần tu tập pháp nầy, thời có thể trừ tất cả sự
ái nhiễm cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, trừ vô minh kiêu
mạn và vô thường tưởng. Đức Như-Lai nếu đã lìa hẳn
vô thường tưởng thời nay chẳng nên nhập Niết-bàn. Còn
nếu chẳng lìa hẳn, cớ sao lại dạy rằng tu vô thường
quán trừ được sự ái nhiễm ba cõi, vô minh, kiêu mạn và
vô thường tưởng.
Bạch
Thế-Tôn ! Ví như đế vương biết mạng sắp chết, bèn ân
xá ngục tù trong thiên hạ rồi sau mới băng. Ngày nay đức
Như-Lai cũng nên như vậy, độ cho tất cả chúng sanh thoát
khỏi lao ngục vô tri vô minh rồi sẽ nhập Niết-bàn. Hiện
tại chúng con đều chưa được giải thoát, sao đức Thế-Tôn
lại vất bỏ mà muốn nhập Niết-bàn ?
Bạch
Thế-Tôn ! Như người say rượu mê loạn nói xàm, không còn
biết thân sơ, mẹ con, chị em,nằm vùi trong phẩn nhơ, nhờ
lương y cho uống thuốc, ói sạch rượu ra mới được tỉnh
lại, lòng rất hổ thẹn tự răn trách lấy mình, rượu là
thứ hại, là cội gốc của các tội lỗi, nếu chừa được
rượu thời khỏi tội lỗi. Chúng con cũng thế, từ nhiều
đời đến nay luân chuyển sanh tử, tình sắc làm say mê tham
đắm trong ngũ dục, không phải mẹ, tưởng là mẹ, không
phải con, chị, em, mà tưởng là con, chị, em, không phải chúng
sanh mà tưởng là chúng sanh, vì cớ ấy nên luân chuyển chịu
khổ sanh tử, như người say kia nằm trong phẩn nhơ. Nay đức
Như-Lai nên ban pháp dược cho chúng con uống để ói rượu
độc phiền não, chúng con còn chưa được tỉnh ngộ, sao đức
Như-Lai lại vất bỏ mà muốn nhập Niết- bàn.
Bạch
Thế-Tôn ! Không có cớ gì khen cây chuối là cứng chắc được.
Chúng sanh cũng thế, không có cớ gì khen ngã, nhơn, chúng sanh,
thọ mạng, dưỡng- dục, tri- kiến, tác-giả, thọ-giả là
chơn thiệt được. Chúng con tu vô ngã quán cũng như vậy.
Bạch
Thế-Tôn ! Vì như bã xác không còn dùng được, bông thất
diệp không có mùi thơm, cũng vậy, thân thể của người không
ngã không chủ. Chúng con thường tu tập pháp quán tưởng vô
ngã như vậy.
Như
đức Phật từng dạy tất cả các pháp không ngã và không
ngã sở, các Tỳ-kheo phải tu tập. Tu như đây thời trừ ngã
mạn, rời ngã mạn thời chứng Niết-bàn. Bạch Thế-Tôn !
Không bao giờ có dấu chim bay nơi
hư không. Người hay tu tập pháp quán vô-ngã không bao giờ
có các kiến-chấp”.
Đức
Phật khen các Tỳ-kheo : Lành thay ! Lành thay ! Các thầy khéo
hay tu tập pháp quán vô- ngã.”
Các
Tỳ-kheo bạch Phật : Bạch Thế-T6n ! Chẳng những chúng con
tu pháp quán vô-ngã tưởng, mà chúng con cũng tu tập các pháp
quán khác như : khổ, vô thường.
Bạch
Thế-Tôn ! Như nguời say, tâm trí mê loạn thấy nhà cửa cây
cỏ núi sông thảy đều xoay lộn.
Ngươi
không tu các pháp quán khổ, vô thường, vô ngã thời
chẳng gọi là bực Thánh, người nầy nhiều phóng dật trôi
lăn trong vòng sanh tử. Vì thế nên các con khéo tu tập các
quán ấy”.
Đức
Phật bảo các Tỳ-kheo :” Lóng nghe ! Lóng nghe ! Vừa rồi
các thầy trình bày ví dụ người say đó, các thầy chỉ biết
danh tự mà chưa hiểu thấu “thật nghĩa”. Thế nào là “thật
nghĩa” ? Như ngườ say kia thấy nhà cửa núi sông vốn thiệt
không xoay lộn, mà tưởng cho là xoay lộn. Cũng vậy, bị những
phiền não vô minh trùm đậy nên chúng sanh khởi tâm điên
đảo : ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh
cho là bất tịnh, lạc cho là khổ. Vì mắc phải phiền não
trùm che, nên dầu nghĩ tưởng như vậy mà không thấu rõ thật
nghĩa”, như người say kia đối với sự không xoay lộn mà
tưởng cho là xoay lộn.
“Ngã” chính là thật nghĩa của “Phật”, “Thường” chính
là thật nghĩa của”Pháp-Thân”, “Lạc” là thật nghĩa
của “Niết-bàn”, “Tịnh” là thật nghĩa của “Pháp”.
Các
thầy sao lại nói người có ngã thời kiêu-mạn cống-cao lưu
chuyển sanh tử. Nếu các thầy nói rằng, tôi cũng tu tập
pháp quán vô thường, khổ, vô ngã. Ba môn tu tập này không
có thiệt nghĩa”.
Như-Lai
sẽ nói ba pháp tu đặc thắng. `
Khổ
cho là vui, vui cho là khổ, là pháp điên đảo. Vô thường
cho là thường, thường cho là vô thường, là pháp điên đảo.
Vô-ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, là pháp điên đảo.
Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, là pháp điên
đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thời là người chẳng
rõ pháp tu chơn chánh.
Các
thầy ở trong pháp khổ tướng cho là vui, ở trong vô thường
tưởng cho là thường, ở trong vô-ngã tưởng cho là ngã, ở
trong bất tịnh tưởng cho là tịnh.
Thế
gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Xuất thế cũng co thường,
lạc, ngã tịnh. Pháp thế gian có văn tự mà không thật nghĩa.
Xuất thế có văn tự có thật nghĩa. Tại sao vậy ? Vì pháp
thế gian có bốn sự điên đảo nên chẳng biết thật nghĩa.
Lại có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.
Vì có ba sự điên đảo nầy nên người thế gian ở trong
lạc thấy là khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã
thấy vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh, đây gọi là điên
đảo. Vì điên đảo nên thế gian biết văn tự mà chẳng
biết thật nghĩa.
Gì
là thật nghĩa? Vô ngã gọi là sanh tử, còn ngã gọi là Như-Lai.
Vô thường là Thanh-văn Duyên- giác, còn thường là Như-Lai
pháp thân. Khổ là tất cả ngoại đạo, còn lạc là Niết-bàn.
Bất tịnh là pháp hữu vi, còn tịnh là chánh pháp của chư
Phật và Bồ-Tát. Đây gọi là chẳng điên đảo. Vì chẳng
điên đảo nên biết văn tự biết thật nghĩa. Nếu muốn
lìa khỏi bốn sự điên đảo thời phải rõ biết thường,
lạc, ngã, tịnh như vậy.
Các
Tỳ-kheo bạch Phật :”Bạch Thế-Tôn ! Như lời đức Thế-Tôn
dạy rằng dứt lìa bốn sự điên đảo ấy thời được rõ
biết thường, lạc, ngã, tịnh. Nay đức Như-Lai trọn không
có bốn sự điên đảo thời đã rõ biết thường, lạc, ngã,
tịnh. Nếu đã rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh sao đức
Như-Lai không ở đời một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy
dổ chúng con, cho chúng con khỏi lìa bốn sự điên đảo, mà
lại vất bỏ chúng con muốn nhập Niết-bàn. Nếu được đức Như-Lai đoái thương dạy bảo, chúng con sẽ hết lòng
tuân lời tu tập. Nếu đức Như-Lai nhập Niết-bàn, chúng
con không thể mang thân độc hại nầy mà tu phạm hạnh. Chúng
con cũng sẽ nhập Niết-bàn theo Phật.”
Phật
bảo các Tỳ-kheo :” Các thầy chớ nói như vậy. Bao nhiêu
vô thượng chánh pháp của Phật, Như-Lai đều đem giao phó
cho Ma-Ha-Ca-Diếp. Ma-Ha-Ca-Diếp sẽ là chổ y-chỉ hoàn toàn
cho các thầy, cũng như đức Như-Lai là chổ y-chỉ của tất
cả chúng sanh.
Ví
như quốc vương lúc đi tuần du, đem quốc sự giao phó cả
cho đại thần. Cũng vậy, Như-Lai đem chánh pháp giao phó cho
Ma-Ha-Ca-Diếp.
Các
thầy nên biết rằng chỗ tu pháp khỗ vô thường trước kia
chẳng phải là chơn thật. Ví như mùa xuân, có một nhóm người
chơi thuyền trong hồ lớn làm rớt chìm ngọc lưu ly.Nhóm người
ấy ,liền cùng nhau hụp lặn tìm ngọc, bóc nhằm hòn
sõi viên đá, bụng mừng cho là ngọc, đến lúc đem ra khỏi
nước mới rõ là không phải. Lúc ấy ngọc lưu ly vẫn ở
dưới nước, do thế lực của ngọc mà nước hồ đều đứng
trong. Bấy giờ nhóm người ấy mới nhìn thấy viên ngọc.
Có một người trí tìm cách khéo chẫm rãi lặn xuống tìm
vớt được ngọc.
Các
thầy chớ nên cho sự tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô
ngã, bất tịnh như vậy là thật nghĩa. Như
nhóm người kia lặn xuống nước bốc nhằm sạn đá mà cho
là ngọc. Các thầy phải khôn khéo nơi nơi chỗ chỗ .luôn
tu pháp quán ngã, thường, lạc, tịnh. Lại cần nên biết
tướng mạo tu tập bốn pháp trước kia đều là điên đảo.
Muốn được chơn thiệt tu các pháp quán, tức là quán ngã,
thường, lạc, tịnh thời phải như người trí khéo vớt được
ngọc kia.
Các
Tỳ-kheo bạch Phật :” Bạch Thế-Tôn ! Ngày trước đức
Phật dạy rằng các pháp vô ngã, các ông phải tu học. Tu
học pháp vô ngã sẽ lìa sự chấp ngã, lìa chấp ngã thời
lìa kiêu mạn, lìa kiêu mạn, thời chứng Niết-bàn. Nghĩa
ấy thế nào ?
Đức
Phật bảo các Tỳ-kheo : “ Lành thay ! Lành thay ! Nay các thầy
có thể bạch hỏi nghĩa ấy để tự dứt chỗ nghi ngờ.
Nầy
các thầy ! Ví như quốc vương kém sáng suốt, tin dùng một
y sư vụng về, tánh tình lại cao ngạo, Phàm trị bịnh gì
cũng thuần dùng sửa để làm thuốc cả, thêm nỗi chẳng
rõ căn do của bịnh, dầu biết dùng sửa mà chẳng hiểu rành,
chẳng biện biệt sửa tốt xấu, lành, không lành. Một hôm,
từ phương xa lại một minh y thông cả tám nghề, rành các
phương thuốc, trị bịnh rất giỏi. Cựu-y vì sẵn tánh cống-cao
khinh mạn nên không đếm xỉa tới. Minh y thấy vậy, bèn hạ
mình thỉnh cựu-y làm thầy, nhơn đó được vào hầu quốc
vương. Minh y trình bày lên quốc vương các phương thuốc và
những nghệ thuật khác. Bấy giờ quốc vương tỉnh ngộ,
xét biết cựu y là hạng vụng về cao ngạo, liền biếm truất
đi, rồi trọng dụng minh y. Minh y mới yêu cầu quốc
vương cấm dân chúng uống thuốc sửa của cựu-y, vì
thuốc ấy độc hại, làm thương tổn người bịnh, quốc
vương chuẩn lời, ra lệnh cấm hẳn, nếu ai dùng sửa
để trị bịnh sẽ bị tử hình. Minh y cứ theo phương dược
chế các thứ thuốc, phàm dân chúng có bịnh gì đều trị
lành cả.
Ít
lúc sau, quốc vương phải bịnh nặng, truyền vời minh y điều
trị. Sau khi khám bịnh, biết rằng quốc vương phải
dùng thuốc sửa, minh y liền tâu rằng :” Ngày trước tôi
yêu cầu cấm dùng sữa làm thuốc, đó là đại vọng ngữ.
Nếu uống thuốc sữa rất có thể trị được bịnh. Hiện
nhà vua đang phải bịnh nóng, chính nên dùng sữa”.
Vua
bão :” Có lẽ ông điên cuồng hay bị bịnh loạn óc rồi,
mới nói rằng uống sữa trị được bịnh của ta. Cựu-y
dùng sửa, ông cho là độc, bảo ta biếm truất và cấm
hẳn, nay trở lại nói sửa là tốt hay trị được bịnh.
Ông
muốn khi dối ta ư ? Cứ theo lời ông nói thời cựu-y có thể
hơn ông rồi”.
Minh
y tâu : “ Thưa Đại-Vương ! Như mối ăn gỗ ngẫu nhiên thành
chữ, con mối nầy tự nó không biết là chữ hay không phải
chữ. Ngừơi trí xem thấy trọn không bao giờ tuyên xướng
rằng con mối biết chữ và cũng chẳng lấy làm lạ.
Cũng vậy, cựu-y không hiểu căn bịnh, bịnh gì cũng dùng thuần sữa để trị, lại không biết sữa là tốt hay xấu, là lành hay không lành”
Vua nói :” Xin ông giải thích cho ta rõ”
Minh y tâu: ”Thuốc sữa kia cũng là độc hại, cũng là cam lộ. Thế nào là thuốc sữa cam lộ ? Nếu là bò cái không ăn bã hèm trấu cặn, con nghé của nó rất điều thiện, chỗ thả chăn không phải cao nguyên cũng không quá thấp ướt, nước uống trong sạch, chẳng cho chạy nhảy, chẳng cho chung bầy với bò đực, cho nó ăn uống đi đứng vừa chừng phải cách. Sữa của bò nầy trị được nhiều bịnh gọi là cam lộ. Ngoài ra các thứ sửa khác thời gọi là độc hại.
Nghe minh y giảng giải, vua khen rằng :” Hay lắm ! Hay lắm ! Nay ta mới rõ thế nào là sửa tốt, xấu, lành, cùng chẳng lành “.
Sau khi được uống thuốc sữa của minh y, vua được lành mạnh, vua liền truyền lịnh cho dân chúng được dùng sữa để trị bịnh. Dân chúng không vừa lòng với thái độ của nhà vua, nên hội đến hoàng cung để cật vấn.
Quốc vương bảo dân chúng :” Mọi người chẳng nên oán trách nơi ta, về vấn đề thuốc sữa nên uống hay không nên uống đều là ý của y sư cả không phải lỗi của ta”.
Dân chúng vui lòng tuân lời minh y dùng thuốc sữa tốt trị bịnh, được nhiều kết quả tốt.
Này các Tỳ-kheo ! Các thầy nên biết đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh- Túc, Thiện-Thệ Thế-Gian-Giải Vô-Thượng-Sĩ Điều-Ngự Trượng-Phu Thiên-Nhơn-Sư Phật Thế-Tôn cũng lạI như vậy. Là bực đại y vương hiện ra nơi đời hàng phục tất cả tà y ngọai đạo. Giữa dại chúng xướng rằng ta là y vương, vì hàng phục ngọai đạo nên nói không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giã. Các thầy nên biết ngoại đạo mà nói là ngã đó, như mối ăn cây ngẫu nhiên thành chữ thôi. Vì thế nên trong Phật pháp đức Như-Lai nói là vô ngã để điều phục chúng sanh, và vì là lúc phải n ói là vô ngã. Rồi cũng vì có nhơn duyên nên cũng nói có ngã. Như minh y kia biết rõ nơi sữa phải thuốc, hay không phải thuốc. Chẳng phải như chỗ chấp ngô ngã của phàm phu. Phàm phu chấp ngã lớn như ngón tay cái, hoặc như hột cải, hoặc như vi trần. Ngã của Như-Lai nói đều không phải như vậy, vì thế nên nói các pháp không ngã, mà chính thiệt chẳng phải là không ngã. Thế nào là thiệt ? Nếu Pháp là thiệt, là chơn, là thường, là chủ, là sở-y, tánh không biến đổi, đó gọi là nga.õ Như minh y kia hiểu rành thuốc sửa. Cũng vậy, Như-Lai vì chúng sanh mà nói trong các pháp chơn thiệt có ngã.
Bốn bộ đệ tử của Như-Lai đều phải tu pháp quán chơn ngã như vậy.
THÍCH-NGHĨA
(36) –SÁU CÁCH CHẤN ĐỘNG : 3 CÁCH VỀ TIẾNG : 1. Tiếng nổ, 2. Tiếng loài hữu tình kêu la, 3. tiếng loài vô tình khua chạm, 3 cách về hình : 1 rung động qua lại, 2. vọt lên khỏi chỗ cũ, 3. đang nằm bỗng đứng dậy dựng lên.
(37)- TÁM BỘ THIÊN THẦN ; Thiên thần, Long thần, Dạ xoa thần, Càn-thát-bà thần, A-Tu- La-thần, Ca-Lâu-La thần, Khẩn-Na-La thần , Ma-hầu-la thần.
(38) Y-VƯƠNG : Đức Phật là ông Vua thuốc pháp, hay chữa lành tâm bệnh phiền não cứu chúng sanh thoát khỏi tất cả khổ thống, sanh tử, để được an vui Niết-bàn thường lạc, ngã, tịnh.
(39)-TU-DI SƠN (Suméru) : Quả núi to nhất ở thế gian, ở giữa biển Hương-Thủy, toàn bằng bốn chất báu Vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Đảõnh núi là cõi trời Đao-Lợi, thuộc quyền Đế-Thích thống trị. Giữa núi là Cõi Tứ-Vương, do 4 vị Thiên-Vương cai quản.
(40)- A-La-Hán : Quả thứ tư trong bốn quả thánh xuất thế thuộc tiểu thừa : Tu-Đà-Hoàn (Dự lưu) bực nầy thấy lý tứ đế, dứt ngã chấp, phân biệt hết kiến hoặc, ra khỏi phàm phu, dự vào hàng Thánh xuất thế. Tư-Đà-Hàm (Nhứt-Lai) bực Thánh nầy đã hết kiến hoặc dứt thêm sáu phẩm trong chín phẩm tư-hoặc cõi dục, còn một lần sanh trở lại cõi dục mới thoát hẳn.
A-Na-Hàm (Bất-Lai) bực Thánh đã hết kiến –hoặc và dứt cả chín phẩm tư-hoặc cõi dục, không còn sanh trở lại cõi dục nữa.
A-La-Hán (Vô-sanh Sát-tặc Ứng-cúng) bực Thánh cao nhứt trong hàng Thanh-văn Tiểu- thừa, đã dứt sạch kiến-hoặc và tư –hoặc tam giới cùng câu-sanh ngã-chấp nên gọi là Sát- Tặc. Đã khỏi hẳn sanh tử luân hồi trong lục đạo, nên hiệu là Vô-sanh, là bực đáng thọ sự cúng dường của Nhơn- Thiên, niên hiệu là Ứng-Cúng.