Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Hỏa táng thân Phật

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 10497)
18. Hỏa táng thân Phật

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

XVIII. HỎA-TÁNG THÂN PHẬT

Lúc đó, các người phái Lực-sĩ, đều tụ-tập lại, cùng bảo nhau rằng: “Nay chúng ta làm sao hỏa-táng thân Như-Lai chứ? Đức Thế-Tôn khi sắp Niết-Bàn, chắc Ngài đã có lời di-sắc?” Nói rồi, họ liền cùng nhau vào hỏi ông A-Nan: “Nay chúng tôi muốn cùng nhau tới làm việc hỏa-táng thân Như-Lai, vậy phép hỏa-táng này như thế nào, chắc khi Thế-Tôn sắp nhập Niết-Bàn có di-chỉ lại, kính xin Tôn-giả bảo cho chúng tôi biết để làm!”

Ông A-Nan bảo các người phái Lực-sĩ rằng: “Đức Như-Lai di-sắc phương-pháp hỏa-táng Ngài như phương-pháp hỏa-táng Chuyển-luân-thánh-vương không khác!” Ông A-Nan liền nói đầy-đủ những việc đức Phật di-sắc trước đây cho họ nghe. Các người phái Lực-sĩ nghe lời ông A-Nan nói, đều cùng nhau sắm đủ những đồ trong việc hỏa-táng. Trước tiên, họ sắm cỗ xe báu, chạm-trổ trang-nghiêm, mỹ-lệ; họ đặt thân Như-Lai trên xe báu kia, đốt hương tán hoa, tấu mọi kỹ-nhạc, ca-tụng, tán-thán; trong tiếng âm-nhạc, gióng lên những pháp: “Khổ, không, vô-thường, vô-ngã, bất-tịnh.”

Khi ấy, những người phái Lực-sĩ, bạch ông A-Nan rằng: “Nay đức Như-Lai nhập Niết-Bàn rồi, sự cúng-dàng lần cuối cùng này rất là khó gặp, chúng tôi muốn thỉnh lưu thân Như-Lai lại bảy ngày, bảy đêm, mặc ý cho mọi người cúng-dàng để cho chư Thiên, Nhân được an-vui mãi mãi được không?”

Ông A-Nan đem lời thỉnh-cầu của những người phái Lực-sĩ hỏi ông A-nâu-lâu-đà. Ông A-nâu-lâu-đà đáp ông A-Nan: “Quý hóa thay! Ông cho tùy ý họ!”

Ông A-Nan bảo những người phái Lực-sĩ rằng: “Thuận cho các ông lưu thân Phật lại bảy ngày bảy đêm, mặc ý cho mọi người cúng-dàng!”

Các người phái Lực-sĩ nghe lời ông A-Nan nói, tâm họ buồn, vui xen-lẫn, ngay trong rừng ấy, họ sắm-sửa mọi thứ cúng-dàng.

Đủ bảy ngày rồi, các người phái Lực-sĩ lấy bông mới, sạch cùng lấy vải nhỏ, mịn quấn vào thân Như-Lai. Sau mới lấy áo quan vàng để trong cùng; trong áo quan vàng này, rắc những bột hương Ngưu-đầu Chiên-đàn cùng các hoa quý. Họ lại đem áo quan vàng để trong áo quan bạc; đem áo quan bạc để trong áo quan đồng; đem áo quan đồng để trong áo quan sắt; đem áo quan sắt để trên xe báu, rồi tấu mọi kỹ-nhạc, ca-hát, tán-thán. Chư Thiên trong hư-không rắc hoa Man-đà-la, hoa Ma-ha Man-đà-la, hoa Man-thù-sa, hoa Ma-ha, Man-thù-sa, cùng tấu thiên-nhạc, mọi thứ cúng-dàng. Cúng-dàng xong rồi, nhiên-hậu lần-lượt hạ các nắp quan xuống.

Bấy giờ, các người phái Lực-sĩ cùng bảo nhau: “Nay kỳ-hẹn bảy ngày đã đủ, chúng ta nên khênh áo quan đức Như-Lai đi vòng quanh thành để cho nhân-dân mặc ý cúng-dàng, sau chúng ta mới khênh đến hỏa-đàn phía Nam-thành!” Họ nói lới ấy rồi, liền cùng nhau khênh áo quan đức Như-Lai lên, nhưng, họ đem hết thân-lực mà không thể khênh nổi lên được. Thấy thế, họ đều kinh-lạ, không biết cớ sao, họ đem việc ấy hỏi ông A-nâu-lâu-đà: “Chúng tôi tất cả mọi người muốn khênh áo quan Phật, đi vòng quanh thành, rồi trở về vào cửa Nam. Tới chỗ cúng-dàng hỏa-đàn, thế mà chúng tôi kiệt-cả thân-lực, vẫn không thể khênh nổi lên được, chúng tôi không biết thế là những sự-tướng gì, kính xin Tôn-giả vì chúng tôi, nói cho chúng tôi nghe về sự ấy!”

Ông A-nâu-lâu-đà bảo mọi người rằng: “Sở-dĩ có việc như thế là vì chư Thiên trên hư-không muốn để áo quan Phật đi vòng quanh thành, rồi từ cửa Bắc vào, dừng nghỉ ngay giữa thành, để chư Thiên, Nhân cúng-dàng mọi thứ, sau mới từ cửa Đông ra, đến chỗ tháp Bảo-quan, mà làm lễ hỏa-táng!”

Các người Lực-sĩ kia, nghe được lời ấy rồi, cùng bảo nhau rằng: “Ý chư Thiên như vậy, chúng ta nên thuận tòng.”

Liền đó, họ khênh áo quan Phật, quanh thành một vòng, từ cửa Bắc vào, dừng nghỉ giữa thành để chư Thiên, Nhân mặc ý cúng-dàng, tấu kỹ-nhạc hay, đốt hương tán hoa, ca-hát tán-thán. Chư Thiên trên không rắc hoa Man-đà-la, hoa Ma-ha Man-đà-la, hoa Man-thù-sa, hoa Ma-ha Man-thù-sa, cùng tấu thiên-nhạc, mọi thứ cúng-dàng.

Cúng-dàng xong rồi, từ cửa Đông thành ra, đến chỗ tháp Bảo-quan.

Đến nơi kia, các Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên, Long tám bộ cảm-động thương khóc nghẹn-ngào, không tự hãm được, mà cùng nhau nhặt những gỗ Ngưu-đầu Chiên-đàn và các thứ gỗ thơm khác, xếp lên thành đống. Trên đống gỗ ấy, trải căng những tấm vải lụa dầy đẹp, mắc tấm mùng đẹp lớn, che lên trên.

Xong rồi, khênh áo quan Phật, quanh đống gỗ thơm kia bảy vòng; đốt hương, rải hoa, tấu mọi kỹ-nhạc; nâng áo quan Phật để trên đống gỗ thơm, lấy dầu thơm tốt, rưới khắp cả.

Bấy giờ, bốn bộ-chúng cùng chư Thiên, Nhân, thương mến áo-não, không tự hãm được, cùng nhau lấy lửa, đốt từ dưới đốt lên. Nhưng, lửa không chịu cháy, dĩ chí đốt đến ba lần, gỗ vẫn không cháy. Mọi người không biết do đâu, liền đem việc ấy hỏi ông A-nâu-lâu-đà rằng: “Chúng tôi đốt đống gỗ thơm ba lần, sao mà không cháy?”

Ông A-nâu-lâu-đà đáp rằng: “Có ra sự ấy vì, Tôn-giả Ma-ha Ca-Diếp (Mahàkàsyapa) ở nước Đạc-soa-na-kỳ-lỵ, nghe biết đức Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn, Tôn-giả cùng năm trăm Tỳ-Khưu từ nước kia về, muốn được trông thấy đức Thế-Tôn, nên đức Thế-Tôn không cho lửa cháy!”

Đại-chúng nghe lời ấy rồi, rất tán-thán là lạ-lùng.

Khi ấy, Tôn-giả Ma-ha Ca-Diếp ở nước Đạc-soa-na-kỳ-lỵ, xa nghe đức Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn ở thành Cưu-thi-na, tâm rất thương mến, Tôn-giả liền cùng năm trăm vị Tỳ-Khưu, lên đường đi về.

Cách thành không bao xa, Tôn-giả bị đau mình mệt quá, ngồi ngay bên đường, không đi được nữa. Lúc Tôn-giả cùng các Tỳ-Khưu ngồi ở dưới gốc cây, thấy một người ngoại-đạo, tay cầm hoa Man-đà-la, Tôn-giả Ca-Diếp hỏi: “Ông từ đâu lại đây?” Người kia đáp: “Tôi từ thành Cưu-thi-na lại!” Tôn-giả Ca-Diếp lại hỏi: “Ông có biết Thầy tôi là bậc Ứng-biến-tri [32] không?” Người kia liền đáp: “Tôi biết bậc Đại-Sư Ngài ở khoảng hàng cây song-thụ trong rừng Sa-la, thuộc thành Cưu-thi-na, nhập Niết-Bàn rồi, nay đã được bảy ngày và giờ này chính ở chỗ tháp Bảo-quan, sắp làm lễ hỏa-táng; Thiên, Nhân đông-chật, tranh nhau cúng-dàng, nên tại đấy tôi lấy được bông thiên-hoa này!”

Tôn-giả Ca-Diếp nghe lời nói ấy rồi, thương khóc nghẹn-ngào, các vị Tỳ-Khưu buồn-bã, ngất lăn ra đất, bảo nhỏ cùng nhau rằng: “Than ôi, khổ lắm! Con mắt của thế-gian mất rồi!”

Bấy giờ. Tôn-giả Ca-Diếp, an-ủi các vị: “Các vị không nên sinh ra sự khổ-não ấy, vì tính-tướng của mọi sự-vật đều như thế cả! Như-Lai Thiên-Tôn còn không khỏi được, huống là người khác thoát được ư? Các vị nên tinh-tiến, cần xa lìa đời khổ! Nay nên đứng dậy, đi nhanh về nơi tháp Bảo-quan, lễ-bái, chiêm-ngưỡng thân Phật!”

Lúc đó, trong chúng có ít vị Tỳ-Khưu khác, đi xuất-gia muộn, ngu-si vô-trí, bảo nhau rằng: “Khi Phật còn tại thế, ngăn-cấm, quở-trách chúng ta, chúng ta không được mặc-ý hành-động, nay Phật nhập Niết-Bàn rồi, sung-sướng quá!”

Khi ấy, Tôn-giả Ca-Diếp cùng các Tỳ-Khưu, tiến về thành Cưu-thi-na. Đến tháp Bảo-quan, trông thấy áo quan Như-Lai, trên đống gỗ thơm tất cả đều thương khóc thướt-mướt, đi nhiễu bảy vòng, rồi trèo lên đống gỗ thơm đến chỗ áo quan Phật, ở ngay phía chân, than-khóc nghẹn-ngào và đầu mặt làm lễ chân Phật.

Bấy giờ, thân đức Như-Lai ở trong áo quan báu, tự nhiên thò ra hai bàn chân. Tôn-giả Ca-Diếp trông thấy thế, càng thêm thương-xót, kinh-sợ. Chư Thiên, nhân trông thấy sự lạ-lùng hiếm có ấy, ai cũng ta-thán, sinh đau-khổ, mến-tiếc quá.

Tôn-giả Ca-Diếp thấy trên chân Phậtvết nhơ, liền quay lại, hỏi ông A-Nan: “Trên chân Như-Lai sao có vết nhơ ấy?” Ông A-Nan đáp: “Bắt đầu khi Như-Lai nhập Niết-Bàn, bốn chúng đông-ních, khi ấy tôi nghĩ rằng nếu cho đại-chúng đồng thời tiến đến trước Phật để cúng-dàng, thời nữ-nhân yếu-đuối, bất-tất tiến đến trước được, tôi liền cho các vị Tỳ-Khưu-Ni cùng Ưu-bà-di vào trước đến chỗ thân Như-Lai lễ-bái, cúng-dàng. Lúc đó, có một Ưu-bà-di bần-cùng, đã một trăm tuổi, thấy vợ và con gái, lớn, nhỏ của các dòng Bà-la-môn, Sát-lỵ, trưởng-giả, cư-sĩ, Lực-sĩ…, đem hương-hoa tốt, mọi thứ cúng-dàng, bà tự thương mình nghèo thiếu, không lấy gì biểu tâm-nguyện được; bà nghĩ thế rồi, càng thêm thương-xót, cảm-động, bà tới chân Phật, tâm áo-não quá, bà khóc thướt-mướt, nước mắt chảy xuống, làm nhơ chân Phật như thế!”

Tôn-giả Ca-Diếp nghe lời ấy rồi, mang tâm buồn-rầu, gở-trách ông A-Nan là không biết can-ngăn bà, để đến nỗi làm nhơ chân Phật như thế! Tôn-giả liền đem hương-hoa, cúng-dàng áo quan Phật. Lễ-bái, tán-thán, các việc xong rồi, hai bàn chân Phật tự nhiên thụt vào. Tôn-giả Ca-Diếp liền trở xuống đất.

Và do Phật-lực, đống gỗ thơm kia tự-nhiên bốn mặt lửa bốc, suốt trong bảy ngày, áo quan báu kia cháy tan hết. Bấy giờ, chư Thiên mưa xuống, lửa tắt đi, các người phái Lực-sĩ thu-nhặt Xá-lỵ; họ gỡ lấy nghìn trương vải quấn thân Phật ra thì trong cùng một trương, bên ngoài một trùng vẫn như cũ và còn bọc Xá-lỵ.

Đương khi ấy, chư Thiên trên hư-không, rải mọi hoa quý, cùng tấu kỹ-nhạc, ca-hát, tán-thán, cúng-dàng Xá-lỵ. Những người lại đây cùng các người phái Lực-sĩ, đều đặt mọi thứ cúng-dàng.

Các người phái Lực-sĩ liền đem chóe vàng, nhặt bỏ Xá-lỵ vào đấy, rồi đặt lên trên xe báu, đốt hương, tán hoa, tấu mọi kỹ-nhạc, trở về trong thành, cất một cái lầu cao lớn, đặt Xá-lỵ ở trên lầu, nghiêm-bị bốn loại binh, để phòng-vệ, thủ-hộ và chỉ cho các vị Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni được vào lễ-bái, dâng mọi thứ cúng-dàng mà thôi, còn vua cùng Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ, hết thảy nhân-dân nước khác, đều không cho đến trước.

TOÁT-YẾU

Khi ấy, các người phái Lực-sĩ, tụ-tập lại, bàn nhau về việc hỏa-táng thân Phật.

Họ đến hỏi ông A-Nan về phương-pháp hỏa-táng này, chắc khi đức Phật sắp nhập-diệt có sắc-chỉ lại? Ông A-Nan liền nói rõ những lời đức Phật dạy về phương-pháp ấy cho họ hiểu.

Họ trở về, thi-hành như pháp.

Sau họ lại đến xin ông A-Nan lưu thân Phật lại 7 ngày, 7 đêm cho mọi người tha-hồ cúng-dàng. Ông A-Nan ưng-thuận.

Hết 7 ngày, họ đặt thân đức Phật vào trong 4 áo quan: vàng, bạc, đồng, sắt, rải hoa, rắc hương, đậy nắp lại.

Rồi họ khênh áo quan Phật vòng quanh thành, vào cửa Bắc, nghỉ tại giữa thành, sau từ cửa Đông ra, đến chỗ tháp Bảo-quan, làm lễ hỏa-táng.

Đến hỏa-đàn, sửa-soạn các việc xong, liền khênh áo quan Phật đặt trên đống gỗ thơm, rồi đốt lửa. Nhưng, mãi lửa vẫn không cháy. Vì, Tôn-giả Ma-ha Ca-Diếp từ nước Đạc-soa-na-kỳ-lỵ chưa về kịp.

Tôn-giả Ca-Diếp về đến nơi, nhiễu Phật, trèo lên chỗ đặt áo quan Phật, lễ dưới chân Phật, tự nhiên hai bàn chân Ngài thò ra. Tôn-giả càng thương-xót, Nhân, Thiên rất lạ-lùng.

Lễ-bái xong, chân Phật thụt vào, Tôn-giả Ca-Diếp xuống, do Phật-lực lửa tự-nhiên bốc cháy 4 mặt đống gỗ. Cháy suốt 7 ngày, áo quan cháy hết, chư Thiên mưa xuống tắt lửa, phái Lực-sĩ thu-nhặt Xá-lỵ bỏ vào chóe vàng, đặt lên lầu cao trong thành cúng-dàng và cắt 4 loại binh phòng-vệ, thủ-hộ, không cho người ngoài vào.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188698)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43806)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25047)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30807)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21023)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38745)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27367)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31087)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33097)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23956)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16967)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20501)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31899)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18081)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20542)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27016)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18043)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25547)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26631)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36580)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28047)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27279)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30323)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37098)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37247)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23864)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32276)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55130)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36902)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27565)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28299)
Công Phu Khuya
(Xem: 37938)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25397)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24129)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11224)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14498)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10621)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant