BÁT NHÃ TÂM KINH
HT. Thích Tuyên Hoá Lược Giảng
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Hằng Đạt
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệc đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư, cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh.
"Diệu trí
phương hà đạt bỉ ngạn,
Chân tâm tự năng
khế giác nguyên
pháp dụ lập danh
siêu đối đãi
Không chư pháp
tướng thể tuyệt ngôn
Tông thú nguyên
lai vô sở đắc
Lực dụng khu trừ
tam trược
Thục tô phán tác
kỳ giáo nghĩa
Ma ha phản chuyển
bát nhã thuyền
Dịch:
Dùng diệu trí mới
đạt bờ giác
Chân tâm tự năng
hợp nguồn giác
Lập danh pháp dụ
vượt đối đãi
Pháp tướng vốn
không, thể không lời
Tông thú xưa nay
không chỗ đắc
Dụng lực dẹp trừ
ba chướng trược
Thục tô xác định
giáo nghĩa này
Ma ha phản chuyển
thuyền bát nhã".
Kinh này được phân ra thành hai phần : 1/ Giải thích tổng quát về danh đề . 2/ Giải thích riêng về văn nghĩa.
Phần giải thích về danh đề được phân làm hai : Kinh đề và nhân đề.
Bàn về đề mục của kinh, trong ba tạng kinh điển, mười hai phần giáo có bảy loại lập đề.
1/ Ðơn nhân lập đề (lập đề mục riêng một người). Sao gọi là đơn nhân lập đề ? Như Phật thuyết kinh A Di Ðà. Phật là người. Phật A Di Ðà cũng là người, nên gọi là đơn nhân lập đề.
2/ Ðơn pháp lập
đề ( lập đề mục cho một pháp đơn độc).
Sao gọi là đơn
pháp lập đề ? Như Phật thuyết kinh Niết Bàn, Ngài dùng tướng pháp làm đề
mục,
đó là đơn pháp lập đề.
3/ Ðơn dụ lập
đề (dùng một ví dụ đơn độc mà lập ra đề mục). Phật thuyết kinh Phạm Võng, là ví
dụ đơn độc. Vì sao ? Kinh Phạm Võng thuyết về giới luật. Giới luật giống
như tràng
la võng ( tràng lưới) ở cõi trời Ðại Phạm. Tràng lưới này hình vòng tròn, được
treo trước cung điện vua trời Ðại Phạm; biểu hiện sự trang nghiêm. Mỗi tràng
lưới có rất nhiều lỗ. Nơi mỗi lỗ có treo một hạt bảo châu. Những hạt châu này
rất quý giá. Chúng hỗ tương chiếu sáng. Mỗi lỗ lưới đều tương thông lẫn nhau.
Hạt châu này chiếu soi những hạt châu kia. Hạt châu kia chiếu soi những hạt
châu nọ. Chúng hỗ tương soi sáng. Ánh sáng của chư vị chiếu soi ánh sáng
của
tôi. Ánh sáng của tôi chiếu soi ánh sáng của chư vị. Tuy nhiên, những ánh sáng
này không lấn áp xung đột lẫn nhau. Không thể cho rằng ánh sáng của tôi không
được chiếu đến ánh sáng của chư vị và ánh sáng của chư vị không được chiếu đến
ánh sáng của tôi. Ánh quang tương chiếu, lỗ lỗ tương thông. Giới luật cũng
giống như những hạt bảo châu, ánh quang hỗ tương soi chiếu.
Ánh sáng tương
chiếu; lỗ lỗ tương thông cũng biểu thị cho Phật pháp. Tâm Phật, tâm Bồ Tát, tâm
chúng sanh, tâm tâm tương ấn. Vì sao chư Phật chứng quả vị Phật ? Vì do tu hành
giới luật mà thành tựu. Bồ Tát cũng nương nhờ giới luật mà thành Phật. Chúng
sanh cũng phải tôn thủ giới luật thì mới mong thành Phật được, biến hóa vô
cùng, thật không cùng tận.
Ðấy là do ví dụ mà
lập đề như kinh Phạm Võng này.
Ba loại lập đề bên
trên được gọi là đơn tam (ba lập đề đơn độc).
4/ Nhân pháp lập đề. Như kinh Văn Thù Sư Lợi vấn Bát Nhã, Văn Thù là người. Bát Nhã là pháp, cũng là pháp tướng. Thế nên gọi là nhân pháp (người và pháp) lập đề.
5/ Nhân dụ lập đề (người và ví dụ). Như kinh Như Lai Sư Tử Hống, Như Lai là người, sư tử hống là dụ. Ðức Như Lai thuyết pháp cũng giống như tiếng rống của sư tử, khiến muôn thú đều run sợ.
6/ Pháp dụ lập
đề. Như kinh này, Bát Nhã Ba La Mật Ða là pháp, tâm là ví dụ, nên kinh này lấy
pháp và dụ lập đề.
Ba loại trên thuộc
về lập đề kép. Sao gọi là kép ? Kép tức là trùng phức, hợp hai loại đề thành
một.
7/ Nhân pháp dụ lập đề. Có người, có pháp, có dụ, đầy đủ cả. Như kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Ðại Phương Quảng là pháp, Phật là người. Hoa Nghiêm là dụ. Ðây biểu thị dùng nhân vạn hạnh mà làm hoa trang nghiêm cho quả đức vô thượng. Ðại Phương Quảng là thuyết về thể của pháp. Hoa Nghiêm biểu thị dụng của pháp. Ðại Phương Quảng tức nói về Phật đã tu các pháp đại phương quảng, rộng lớn mới thành Phật được. Nhân hoa vạn hạnh là tu chứng được lục độ cũng như hoa nở. Quả đức vô thượng chính là hạnh đức Phật quả. Thế nên bảo rằng dùng vạn hạnh như hoa làm chủng nhân để trang nghiêm hạnh đức Phật quả vô thượng. Ở trên là nói về bảy loại lập đề.
Nay tôi sẽ dùng kệ mà giải thích đề kinh. Mỗi phần đoạn dùng tám câu kệ để giải thích. Tám câu kệ này giảng rõ về kinh bát nhã ba la mật đa. Giảng về đề mục của kinh này, y chiếu theo năm loại huyền nghĩa.
Thứ nhất là giải thích danh nghĩa.
"Diệu trí
phương hà đạt bỉ ngạn, (dùng diệu trí mới đạt bờ giác)".
Sao gọi là diệu
trí ? Bát Nhã là diệu trí. Ðạt đến bờ bỉ ngạn (bờ giác) tức là bát nhã ba la
mật đa. Vì thế, chư vị dùng trí bát nhã thì mới đạt đến bờ giác.
"Chân tâm tự
năng khế giác nguyên, (chân tâm tự khế hợp nguồn giác)".
Chân tâm này là
chữ tâm, cũng là bát nhã.
" Pháp dụ lập
danh vượt đối đãi, (lập danh pháp dụ vượt đối đãi)".
Tâm kinh bát nhã
ba la mật đa lấy pháp và dụ mà lập danh đề. Bát nhã ba la mật đa là pháp. Tâm
là dụ. Bát nhã là gì ? Bát nhã có ba loại là văn tự bát nhã, quán chiếu bát
nhã, thật tướng bát nhã. Dùng văn tự bát nhã mà xuất sanh quán chiếu bát
nhã.
Dùng quán chiếu bát nhã mà khế hợp với thật tướng bổn giác bát nhã. Cùng
tột
thật tướng bát nhã chính là trí huệ, tức là trí huệ vi diệu, cũng gọi là
trí
huệ triệt để. Trí huệ này thật triệt liễu, là trí huệ để mình trở về quê
nhà,
tức là trí huệ của chư Phật.
Sao nói như thế ?
Vì trí huệ bát nhã chính là chân tâm. Chân tâm cũng là trí huệ. Chữ 'bát
nhã'
được dịch là 'chân tâm'. Kinh này nói về tâm trong tâm. Ðây là tâm mà sáu trăm
quyển bát nhã luôn đề cập tới. Bộ kinh này nói về tâm trong tâm. Bát nhã
là
tâm, cũng là tâm trong tâm. Tâm trong tâm nghĩa là tâm, nên gọi là tâm kinh. Vì
chữ 'bát nhã' được dịch là 'nhất chân tâm', nên kinh đại bát nhã cũng gọi là
kinh 'đại chân tâm'. Tâm này không phải là tâm giả dối, mà là diệu lý thật
dụng.
Bộ tâm kinh là tâm
trong tâm bát nhã, tuy chỉ có hai trăm sáu mươi chữ mà lấy chữ tâm trong
kinh
bát nhã làm chủ thể, nên gọi tâm trong tâm. Nay lại nói chữ tâm này, chính là
tâm trong tâm, nên gọi là tâm kinh. Chân tâm biểu hiện chân tâm, nên dùng một
chữ tâm. Pháp này là bát nhã ba la mật đa, cũng là pháp đạt đến bờ giác.
Tâm là
dụ. Kinh này lấy tâm trong một đời người làm chủ thể, nên tuyệt không và
vượt
ngoài đối đãi. Pháp tuyệt không đối đãi này cũng không có pháp nào đối đãi
được, siêu việt, vượt ngoài cảnh giới đối đãi.
Thứ hai là hiển thể.
"Không chư
pháp tướng thể tuyệt ngôn, (pháp tướng vốn không, thể không lời)".
Thể của kinh này
là gì ? Tức là không có tướng của các pháp, cũng là các pháp không tướng. Không
tướng tức không có tướng thật. Không chư pháp tướng được dùng làm thể của kinh.
Tuyệt ngôn ngữ tức là không chi nói được. Thể đó là không chư pháp tướng; việc
chi cũng không có, cho đến lời nói hay ho của chư vị cũng thế. Thể đã tuyệt
ngôn ngữ tức là kinh xa lìa tướng của ngôn ngữ lời nói. Xa rời tâm thường duyên
theo hình tướng, xa lìa tướng văn tự, xa rời tất cả tướng, tức xa rời tất cả
pháp.
Thứ ba là chỉ rõ tông thú (đường hướng của tông giáo).
"Tông thú
nguyên lai vô sở đắc, (tông thú vốn không chỗ đắc".
Câu thứ năm chỉ rõ
đường hướng của tông giáo. Bộ kinh này theo tông chỉ gì ? Lấy vô sở đắc (không
có chứng đắc) làm tông chỉ. Bên trên, kinh nói rằng vô trí diệc vô sở đắc
(không trí cũng không có chỗ đắc). Tông thú (đường hướng của tông giáo) là gì ?
Tức là không có chỗ đắc.
Nay dùng pháp thế
gian mà giảng Phật pháp. Như con người, là danh xưng thông thường. Con người
thì gọi là người. Kinh này gọi là kinh. Gọi tên người như thế nào ? Hoặc
gọi
Trương Tam, Lý Tứ, đó là giải thích về danh tự. Người đó tên là Trương Tam, mà
cao, thấp, trắng, mập, ốm như thế nào ? Thể tánh của người đó ra sao ? Thân thể
có hoàn toàn hay không ? Có mắt, mũi, tai không ? Nói rõ ràng thể tánh của
người đó tức là hiển thể.
Kế tiếp, chỉ rõ
tông giáo. Chỉ rõ tông giáo như thế nào ? "Ông ấy là người rất cao, nên
làm được nhiều việc khó nhọc. Ông ấy là người có học vấn, nên có thể làm
bí
thư. Ðó là tông chỉ của ông ta ! Ông ta trước kia là người như thế nào thì nay
có thể làm những việc như thế ấy".
Ðó là nói rõ tông
chỉ.
Thứ tư là luận bàn về dụng.
"Lực dụng
khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".
Dùng lực gì ? Ðể
làm gì ? Dùng tâm kinh bát nhã ba la mật đa để làm chi ? Tức là dùng lực
dụng
của kinh này để phá trừ ba chướng. Ba chướng là gì ? Một là báo chướng. Hai là
nghiệp chướng. Ba là phiền não chướng.
Báo chướng có hai
loại là chánh báo và y báo. Sao gọi là chánh báo, y báo ? Chánh báo tức là
chúng ta đang thọ báo trong hiện tại, cũng là thân thể chính mình. Y báo
tức là
y cứ theo cuộc sống mà thọ báo, như y phục, thức ăn, chỗ ở, v.v... Chánh
báo
của con người là thân thể đẹp xấu, khỏe mạnh hay bịnh tật, tướng mạo anh
tuấn
hay xấu xí, người người trông thấy đều hoan hỷ, ái kính hay ghét bỏ. Hoặc giả
người có trí huệ, hay có thiện căn. Tuy nhiên trong mỗi hạng, cũng phân làm
hai.
Thứ nhất, người có
trí huệ mà không có thiện căn. Vì sao thế ? Những hạng người này đa số đều từ
quỷ quái yêu ma mà sanh ra trên thế gian. Như sơn tinh ở núi lâu năm thành yêu
quái, là loài si mị võng lượng (quỷ xuất sanh từ gỗ đá). Những loại quỷ thần
đầu trâu mặt ngựa này là những yêu tinh lâu năm thường ăn thịt người, hay những
yêu quái đã chết lâu rồi, nay trở lại làm người. Chúng rất thông minh như những
người khác. Tuy nhiên, chúng làm việc gì cũng đều không thông minh, luôn
làm
những việc sai lầm, chuyên môn không giữ luật lệ. Những việc có hại đến người
khác thì chúng đều làm. Chúng thường nói những điều làm loạn trật tự xã hội, vì
sợ thiên hạ không bị loạn. Loại người này có trí huệ mà không có thiện
căn.
Lại nữa, người có
thiện căn mà không có trí huệ. Có thiện căn là vì đời trước có làm những
việc
lành, nhưng không nghiên cứu kinh điển, nên không có trí huệ, rất ngu si. Bàn
về chánh báo, có người tướng mạo đầy đủ, thọ mạng lâu dài, được phú quý.
Lại có
người tướng mạo xấu xí, thọ mạng ngắn ngủi, chết lúc tuổi còn nhỏ. Tất cả đều
do tiền nhân hậu quả, (nhân trước quả sau).
Y báo là y phục,
thức ăn, nhà cửa v.v...Y báo cũng là quả báo của đời quá khứ. Ðời trước trồng
nhân lành thì đời này được quả báo tốt. Ðời trước trồng quả ác thì đời này chịu
quả báo xấu. Tương lai có thể còn chịu quả báo xấu nữa. Ðó là báo chướng.
Bàn về nghiệp
chướng thì nghiệp tức là sự nghiệp, công nghiệp. Không luận người xuất gia hay
tại gia, nhất định đều có sự nghiệp. Tạo ra sự nghiệp rồi thì nhiều vấn đề khó
khăn phát sanh. Khi có khó khăn thì liền sanh phiền não, rồi gặp bao việc không
vui. Ðó gọi là nghiệp chướng.
Nói về phiền não
chướng thì chúng ta ai ai cũng có ít nhất một loại phiền não. Phiền não này
phát sanh từ đâu ? Nó do tâm tham, tâm sân, tâm si phát khởi ra. Sao chư
vị
phát sanh phiền não ? Vì có tâm tham, nên tham không được liền sanh phiền não.
Vì có tâm sân hận nóng giận, mọi sự tình đều không hợp với tâm ý chư vị,
liền
phát sanh phiền não. Vì tâm ngu si, không sáng suốt, nên phát sanh phiền
não.
Vì còn tâm ngã mạn, kiêu căng, nên xem thường người khác, nên phát sanh phiền
não. Vì tâm nghi, đối với tất cả sự tình đều phát sanh hoài nghi. Do có hoài
nghi nên tạo ra phiền não. Lại vì còn tà kiến, nên kiến giải của chư vị không
chánh đáng, nên phát sanh phiền não. Nếu có chánh tri chánh kiến, tức có
trí
huệ chân chánh thì đối với mọi việc, chư vị đều hiểu rõ ràng. Vì thông suốt từ
đầu đến cuối nên không sanh phiền não. Vì vậy, phiền não do tâm tham lam, sân
hận, si mê, ngã mạn, tà kiến phát khởi lên.
Bộ tâm kinh này
năng phá trừ được ba chướng là báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng.
Làm sao phá trừ được ? Do có trí huệ chân chánh, trí huệ vi diệu, tâm như như
bất động, và chân tâm nên phá trừ được ba chướng. Chúng ta hiểu rõ giáo nghĩa
tâm kinh bát nhã ba la mật đa thì mới có trí huệ chân chánh, dẹp trừ được ba
chướng.
Thứ năm là nói rõ giáo tướng.
"Thục tô
phán tác kỳ giáo nghĩa, (thục tô xác định giáo nghĩa này".
Dùng thục tô mà
xác định nghĩa lý tâm kinh bát nhã ba la mật đa. Thục tô là thời đức Phật
thuyết pháp Bát Nhã lần thứ tư. Ðức Phật thuyết pháp có năm thời tám giáo. Năm
thời tám giáo này do Trí Giả đại sư tông Thiên Thai phân lập ra.
Nay tôi y chiếu hai nghĩa trí huệ quyền thật mà thuyết về năm thừa.
Thời Hoa Nghiêm : Lần đầu tiên đức Phật thuyết pháp, vừa quyền vừa thật, cộng thảy hai mươi mốt ngày. Ngài thuyết ra thật pháp, thật trí, và quyền trí. Sao gọi là thật trí và quyền trí ? Kinh Hoa nghiêm giảng về đạo lý của pháp giới, mà trong đó có sự pháp giới và lý pháp giới. Sự lý vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới. Giáo nghĩa này tuy Phật vì Bồ Tát mà thuyết, nhưng cũng là pháp phương tiện quyền xảo cùng trí huệ chân thật của Phật pháp. Thời kinh Hoa Nghiêm là nhất quyền và nhất thật, (một quyền, một thật).
Thời A Hàm : Lần thứ hai, duy chỉ có quyền giáo pháp mà không thật pháp. Giảng về quyền giáo, dùng pháp môn phương tiện quyền xảo để dạy dỗ, giáo hóa chúng sanh. Trong thời thứ hai, chỉ có quyền pháp chứ không có thật pháp, không có thật trí.
Thời phương đẳng : Là thời thứ ba, có ba loại quyền, một loại thật. Tại sao? Vì thời này là bốn giáo đồng luận đàm. Bốn giáo là tạng, thông, biệt, viên. Dẹp phá thiên chấp tiểu giáo, tán thán đại giáo. Thiên chấp tức kiến chấp thiên lệch của chư vị không đúng. Phá tiểu, tức nói giáo lý tiểu thừa không đúng. Tán đại tức là tán thán đại thừa, phô trương viên giáo. Sao gọi là phương đẳng ? Vì đồng đàm luận bốn giáo. Ðồng thời khi giảng về đạo lý bốn giáo cũng nói về ba loại quyền pháp, tức tạng, thông, biệt. Loại quyền pháp này cũng là viên giáo.
Thời Bát Nhã : Là thời thứ tư, có hai loại quyền và một loại thật. Hai loại quyền là thông giáo và biệt giáo. Một loại thật là viên giáo.
Thời Pháp Hoa,
Niết Bàn : Chỉ có thật pháp mà không có quyền pháp, có thật trí, không có quyền
trí, lại không có pháp phương tiện quyền xảo.
Năm thời bên trên
luận bàn y cứ theo pháp quyền thật. Năm thời này thường được giảng tới giảng
lui. Mỗi lần giảng kinh đều nhắc đến.
"Ma ha phản chuyển bát nhã thuyền, (ma ha chuyển ngược thuyền bát nhã".
Ma ha nghĩa là
lớn. Chuyển ngược tức là đảo chuyển trở lại. Ðảo chuyển như thế nào ? Tức đảo
chuyển thuyền bát nhã. Tại sao chư vị muốn đảo chuyển thuyền bát nhã mà không
đảo chuyển bát nhã ? Ðảo chuyển gì ? Ðó là đảo chuyển ngu si của mình. Chuyển
được tức là niết bàn. Chuyển ngược dòng nước, phải dùng hết sức lực chứ không
thể dể duôi mà đi được. Tuy nhiên, không cần phải đợi ba a tăng kỳ mà trong một
đời, hai đời, ba đời v.v..., có thể đắc được trí huệ chân chánh. Nói thời gian
dài quá thì chúng ta đâm ra chán ngán, không muốn tu. Không muốn tu cũng
không
thể miễn cưỡng. Miễn cưỡng không phải là đạo. Thế nên đệ tử của tôi muốn
đọa
lạc thì cứ đọa lạc.
Bát nhã ba la
mật đa là pháp. Tâm là ví dụ. Kinh là bộ kinh này. Kinh có thông danh và
biệt
danh. Thông danh là thống nhiếp hết mọi bộ kinh. Biệt danh là mỗi bộ kinh có
danh tự riêng biệt, những bộ kinh khác không có tên giống nhau. Tâm kinh
bát
nhã ba la mật đa là biệt danh của bộ kinh này. Bộ tâm kinh bát nhã ba la
mật đa
này thuộc trong bộ Bát Nhã, biểu thị tâm trong tâm.
Sao gọi là kinh ?
Kinh tức là kinh pháp thường bất chuyển, không thể thay đổi. Một chữ cũng không
thể bỏ được, hay cũng không một chữ được. Ðó là kinh pháp thường bất biến.
Lại
"kinh" là một con đường, nghĩa là tu hành phải đi qua một con đường
nhất định.
Này chư vị cư
sĩ ! Ðừng để tâm vô minh che lấp.
Nhưng, không
nên vì tụng kinh mà sanh ra phiền não. Chớ nói ": Này đạo hữu ! Ðạo hữu
tụng kinh quá nhanh, khiến tôi theo không kịp. Hoặc đạo hữu tụng kinh quá chậm,
khiến tôi phải đợi. Hoặc tiếng tụng kinh của đạo hữu không hay lắm, khiến tôi
không thích nghe."
Không nên dùng công
phu tu học như thế. Chúng ta biết rằng mọi người đều là những kẻ mới bắt
đầu
học Phật pháp. Không phải ai cũng biết tụng kinh hết, hay có người biết tụng mà
không muốn tụng. Nhưng, tất cả mọi người đều phải đồng tụng kinh. Ðược như thế
thì ai ai cũng đều đồng huân tu tập. Lại nữa, không nên mình tìm lỗi xấu
người;
người khác tìm lỗi xấu mình. Nếu thật có lỗi xấu thì thì mọi người nhất định
phải tự mình nhìn thấy. Nếu không tự mình nhìn thấy thì lỗi xấu càng ngày càng
nhiều; tu hành không thể tương ưng với đạo được. Thế nên, tụng kinh tức là hộ
giúp cho tự tánh mình. Hộ giúp việc gì ? Tức là hộ giúp khai mở trí huệ.
Tụng
kinh Kim Cang thì trí huệ được khai mở. Tụng tâm kinh cũng khai được trí
huệ.
Thế nên, chư vị bảo tụng kinh không có lợi ích nhưng kỳ thật sự lợi ích này rất
lớn.
Kinh cũng có
bốn loại ý nghĩa, tức là quán, nhiếp, thường, pháp. Chữ quán, nghĩa là quán
xuyến, tức là tất cả nghĩa lý đều nối thông với nhau như nối lại tất cả đường
chỉ với nhau.
Nhiếp tức là nhiếp
trì hóa độ những chúng sanh có duyên lành. Kinh năng nhiếp thủ những chúng sanh
có cơ duyên, tùy theo bịnh mà cho thuốc. Sao gọi là nhiếp ?
Chữ thường nghĩa là vĩnh viễn thường hằng bất biến. Mãi không biến đổi là từ đầu đến cuối, từ xưa đến nay, đều y chiếu theo kinh mà tu hành.
Pháp là phương pháp. Dùng phương pháp này để tu hành. Ðời quá khứ, hiện tại và vị lai đều dùng phương pháp này mà tu hành. Vì vậy ba đời đồng tôn kính gọi là pháp. Xưa và nay không đổi nên gọi là thường.
Lại nữa, kinh nghĩa là mực thước. Thợ mộc xưa kia dùng dây nhuộm phấn đen. Khi muốn gạch lằn ngang liền căng dây ra, rồi ấn xuống. Khi lấy dây lên tạo ra một lằn phấn đen để làm mực thước, không như hiện nay có phấn có thước kẻ đường ngay ngắn.
Tóm lại, kinh
là quy củ, tiêu chuẩn, mực thước. Nay chúng ta nghiên cứu kinh Bát nhã, cũng là
y theo quy tắc Bát Nhã.
Giải thích danh đề tổng quát.
Giảng về đề
kinh, đại khái cũng giống như những lời giảng ở phần trên. Nay giảng trạch về
người phiên dịch. Hiện tại, chúng ta hiểu rõ bộ kinh này phải nhớ ơn người
phiên dịch. Nếu không có người phiên dịch, sợ rằng ngày nay chúng ta không thể
đọc, nghe được tên kinh này. Nếu không được nghe, không được đọc đến tên
kinh
này thì chúng ta y chiếu theo kinh nào, phương pháp nào để tu hành ? Không có
phương pháp thì làm sao chúng ta tìm được con đường tu hành. Thế nên, chúng ta
phải tri ân người phiên dịch kinh. Trải qua bao thời đại, người dịch giả, vì
lòng từ bi giáo hóa chúng sanh nên phát tâm phiên dịch kinh điển và lưu truyền
lại cho đến hôm nay. Thế nên, công đức của người phiên dịch kinh điển không thể
nghĩ bàn, thật to lớn. Người phiên dịch kinh này là ai ? Chính là do tam
tạng
pháp sư Ðường Huyền Trang vâng chiếu dịch kinh. Ðường tức là Ðường triều. Tam
tạng là kinh tạng, luật tạng, và luận tạng. Tạng kinh có rất nhiều bộ kinh.
Tạng luật giảng về giới luật. Tạng luận giảng về đạo lý kinh điển.
Pháp Sư là lấy
pháp làm thầy, đem pháp bố thí cho người. Dùng tam tạng kinh điển của Phật pháp
làm thầy mình, và đem pháp giáo hóa chúng sanh, nên gọi là tam tạng Pháp
Sư.
Mỗi vị pháp sư hiện nay tôn tam tạng kinh điển làm thầy và đem pháp ra giáo hóa
chúng sanh. Ðầy đủ hai nghĩa này thì chư vị mới có thể gọi họ là vị pháp
sư tôn
kính pháp làm thầy và dùng pháp để giáo hóa chúng sanh.
Huyền Trang là tên của một vị pháp sư. Căn cơ của Ngài rất thâm hậu, áo diệu. Cảnh giới của Ngài thật không thể nghĩ bàn. Bàn về Phật giáo đời cận đại, Ngài là một vị pháp sư rất cao thâm, vĩ đại. Vì sao ? Ngài qua Ấn Ðộ thỉnh kinh. Khi ấy, chưa có phương tiện giao thông như máy bay, xe lửa, tàu bè, chỉ dùng ngựa thôi. Thế nên, Ngài cỡi ngựa từ Tân Cương qua trung tâm Á Tế Á, vượt dãy Hy Mã Lạp Sơn đến Ấn Ðộ. Cuộc hành trình của Ngài xa viễn, gian khổ. Chưa ai làm được như Ngài. Trước khi qua Ấn Ðộ thỉnh kinh, mỗi ngày Ngài thực tập đi bộ từ sáng đến tối. Vùng gần nhà không có núi, Ngài sắp ghế bàn lại với nhau, rồi nhảy qua bàn qua ghế, thực tập cách leo núi, trèo non. Vì vậy trên đường từ trung tâm Á Tế Á đến Ấn Ðộ, tuy có rất nhiều núi non hiểm trở cheo leo, nhưng nhờ khi ở nhà Ngài đã từng thực tập chuẩn bị rồi nên Ngài đi như bay, bao nguy hiểm đều vượt khỏi. Cuối cùng, Ngài đạt mục đích là đến được Ấn Ðộ. Ngài lưu lại Ấn Ðộ mười bốn năm ròng rã, rồi sau đó thỉnh kinh trở về nước để phiên dịch.
Phụng chiếu
dịch; phụng là thừa phụng; chiếu là chiếu thư; dịch tức là phiên dịch. Từ tiếng
Phạm của Ấn Ðộ, phiên dịch thành tiếng Hoa. Nay có nhiều vị cư sĩ thông đạt Anh
văn, Phạm văn, Ðức văn v.v... Nếu có thể phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ ở tây
phương thì công đức thật vô lượng. Ảnh hưởng này không phải một đời mà kéo dài
đời này qua đời nọ. Người tây phương sẽ rất tri ân. Vì vậy, tôi hy vọng mỗi vị
Phật đừng để người sau thất vọng, mà hãy mau học tiếng Tàu, rồi phiên dịch kinh
điển ra tiếng Anh, ngõ hầu cống hiến phục vụ cho người tây phương. Hãy tranh
thủ mà làm. Ngày nay thế giới thật là hư hoại. Chỉ có Phật pháp mới năng
vãn
hồi cứu độ kiếp ác này. Nếu mọi người đều không hiểu Phật pháp thì e sợ rằng
thế giới sẽ đến thời kỳ diệt vong. Ðạo Gia Tô nói về ngày tận thế. Ngày tận thế
cũng không xa lắm đâu ! Nếu kinh điển Phật giáo được phiên dịch qua tiếng Anh,
khiến người người đều thông hiểu Phật pháp, biết rõ rằng không nên lười biếng,
cố gắng tiến bước phát tâm tu đạo. Nếu được như thế thì ngày tận thế càng lúc
càng xa vời, và không biết con người sẽ sống đến bao nhiêu đại kiếp nữa,
hoặc
giả không có luôn ngày tận thế. Tại sao ? Vì Phật pháp thường chuyển đại
pháp
luân, nên khiến mặt trời luôn trụ mãi, không tan mất đi. Vì vậy, không có ngày
tận thế. Mọi việc trên thế gian đều sống động cả. Chúng không chết cứng,
ù lỳ.
Ngày tận thế thật chẳng phải là ngày tận thế. Nếu đến ngày tận thế, cũng
không
chính là ngày tận thế. Việc quan trọng là nếu mọi người đều học Phật pháp thì
chắc sẽ không có ngày tận thế. Nếu không ai chịu học Phật pháp thì ngày tận thế
đã đến. Lý này rất sống động chứ không cứng nhắc. Giống như lúc trước có
tin
rằng trong tháng tư năm nay thành phố Cựu Kim Sơn sẽ có động đất, cả thành phố
đều sẽ bị chìm xuống biển. Tin đồn này không phải mới phát sanh trong năm nay
mà năm trước cũng đã có rồi. Nhiều kẻ giàu có, sợ chết chìm nên đã bỏ đi
đến
sống nơi khác. Năm rồi tôi có nói rằng chư vị chỉ nên cố gắng học Phật pháp thì
thành phố Cựu Kim Sơn sẽ không bị động đất. Năm nay tôi lại nói rằng chư
vị nên
thành tâm tụng chú đại bi, học Phật pháp. Tôi bảo đảm với chư vị là thành phố
Cựu Kim Sơn sẽ không bị động đất. Những lời này tôi cũng đã từng nói với
chư vị
rồi. Tại sao cho đến nay Cựu Kim Sơn cũng chưa có động đất ? Có phải là do sự
cảm ứng không ?