Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng

12 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 23913)
Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng

KINH TRÁI TIM TUỆ GIÁC VÔ THƯỢNG

(PRAJÑĀPĀRAMITĀSŪTRA-HRDAYA-SÙTRA) 
Khải Thiên Dịch và chú giải (bản mới -2007)

blank

Nội Dung 

Lời Dẫn.
Phần một Nguyên Bản và Dịch Bản.

I. Tâm Kinh nguyên Bản Sanskrit 
II. Tâm Kinh- bản Hán dịch của Huyền Trang 
III. Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh (Ngữ âm Hán -Việt) 
IV.Tâm Kinh-bản Anh Ngữ 
V. Tâm Kinh (bản dịch tiếng Việt) 
Chú thích đặc biệt của bản dịch tiếng Việt
Phần hai Cấu trúc Kinh Trái Tim.

I. Cấu Trúc 
II.Phân Tích 
Phần Ba Thông Điệp.

I. Thông điệp từ Kinh Trái Tim (bản mới-2007) 
Phần Bốn Nghi thức thọ trì Kinh Trái Tim.

Phụ Lục.

I. Message from the Heart Sutra (American version-2007) 
II. Words from Heart of Wisdom 

 

Lời dẫn 

Bản kinh được dịch và chú giải dưới đây tiếng Phạn (Sanskrit) gọi là Prajñāpāramitā Hrdaya Sūtra; Hán dịch: Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh; Việt dịch: kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng; gọi tắt là Kinh Trái Tim hay Tâm Kinh (Heart Sutra). 

Về mặt lịch sử, Bát Nhãbộ kinh đầu tiên truyền bá tư tưởng Ðại thừa (Mahāyāna) với giáo thuyết trung tâmTánh Không (Śūnyatā). Theo các nghiên cứu hiện đại, bản kinh cổ nhất của văn hệ Bát Nhã là bản Aşţasāhasrikā Prajñāpāramitā (Bát Nhã Bát Thiên Tụng), gồm tám ngàn câu kệ (ślokas) hay còn gọi là Tiểu Phẩm Bát Nhã, xuất hiện khoảng 100 năm trước Tây lịch. Đến khoảng đầu thế kỷ thứ nhất Tây lịch, kinh Bát Nhã đã từ từ được mở rộng thành Đại Phẩm Bát Nhã với ba bản khác nhau, bao gồm bản 100.000 câu, bản 25.000 câu, và bản 18.000 câu. Nghiên cưú của Eward Conze cho thấy rằng nội dung chính của ba bản trên đều giống nhau, chỉ khác nhau ở những chi tiết được lặp lai.[i] Đặc biệt là, trong số các bản Bát Nhã, có những bản được tinh lược rất ngắn; hai trong số các bản ngắn nhất và xuất hiện sớm nhất (khoảng trước thế kỷ thứ IV Tây lịch) là bản Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra) và Kim Cương Bát Nhã (Diamond Sutra). Nghiên cứu của Edward Conze xác định rằng sự tập thành của kinh Bát Nhã được diễn ra theo một trình tự: trước hết là Bát Nhã 8.000 câu (ślokas), tiếp theo sau là Bát Nhã 10.000 câu, 18.000 câu, 25.000 câu, và 100.000 câu; sau đó Bát Nhã lại được tinh giản thành 2.500 câu, 700 câu, 500 câu, 300 câu (kinh Kim Cương), 150 câu, 25 câu (Tâm kinh) và sau cùng chỉ có một âm tiết “A”. Sự tập thành kéo dài này hoàn tất vào khoảng năm 700 Tây lịch (A.D.)[ii]

Lịch sử tư tưởng của văn học Bát Nhã đã được nghiên cứu rất phổ biến, đáng chú ý nhất là những nghiên cứu của Thiền sư Suzuki và nhà Phật học nổi tiếng Edward Conze[iii]. Và như đã đề cập, tinh yếu của hệ tư tưởng này được gói trọn trong bài Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra), trong đó bản dịch được hâm mộ nhất đối với Phật tử Á Đông là bản của ngài Huyền Trang (dịch vào năm 649)[iv], dài không hơn 300 chữ, hay nói chính xác hơn là 262 chữ. Bản dịch này là bản kinh thuộc lòng của Phật tử ở các nước Viễn Ðông châu Á và nó cũng được lưu hành rất phổ biến tại các cộng đồng Phật giáo ở châu Âu và Bắc Mỹ với tên gọi quen thuộc là Heart Sutra, tức là Kinh Trái Tim. Theo Eward Conze, “Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra), một trong những văn bản tâm linh hùng vĩ nhất của nhân loại, là một tái thẩm định về bốn Chân lý, được minh giải dưới ánh sáng ưu việt của Tánh Không luận.”[v] 

Bản Tâm kinh này hiện nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bản Anh ngữ đầu tiên do Max Muller dịch, in năm 1884; bản thứ hai do Shaku Hannya dịch, in năm 1923; bản dịch lần thứ ba do Thiền sư Suzuki dịch, và được in trong bộ Thiền Luận (Essay in Zen Buddhism) vào năm 1934. Và đến năm 1948, Eward Conze công bố thêm một bản dịch mới. Trên đây là các bản dịch nổi tiếng của các học giảthẩm quyền chuyên môn về Phật học

Về nội dung, Tâm kinh được xem như là “trái tim” của toàn bộ tư tưởng Phật giáo Đại thừa được nói ra bởi Tuệ giác Vô thượng của Phật, nhằm dắt dẫn chúng sinh đi vào thực tại–giải thoát. Do đó, mặc dầu bản kinh dài không qúa 300 âm tiết nhưng nó đã đề cập hầu hết các giáo lý truyền thống như bốn Thánh đế, mười hai Nhân duyên, năm Uẩn .v.v., đặc biệt là những giáo lý truyền thống đó được soi sáng bằng con mắt của Tánh Không

Nói về sự kỳ vĩ của Tánh Không, người viết đã nhấn mạnh rằng: “Ðiều độc nhất vô nhị ở đây là sự lôi kéo về trần thế này và con người này một trú xứ nhân gian Tịnh độ... mà chúng ta cứ những tưởng trú xứ của niềm phúc lạc vô biên đó không có ở đây, ở mảnh đất gổ ghề, cấu nhiễm của những sinh linh đang thất thểu trong vui buồn, say tỉnh với bao nỗi khổ trầm luân. Dưới ánh sáng của Tánh Không, lần đầu tiên chúng ta biết rằng quê hương của Niết bàntrần thế.”[vi]

Nội dung của tập sách mà bạn đang cầm trên tay không phải là một nghiên cứu đúng nghĩa về Tánh Không luận hay về tư tưởngvăn học Bát Nhã, mà trái lại chỉ là một sự chuyển ngữ từ Hán văn sang Việt văn dựa trên nguồn cảm hứng tâm linh mà người viết muốn diễn đạt bằng ngôn ngữ ‘quê hương’ của mình. Bên cạnh đó, người viết cũng đưa ra một vài ghi chú quan trọng về bức thông điệp của Tâm Kinh. Tuy Nhiên, để tránh những ngộ nhận về ngôn từ khi đọc bản dịch này, độc giả nên tham khảo bản gốc tiếng Phạn và Hán được đính kèm. Ở đây, nội dung của tập sách này được bố cục thành bốn phần: Phần một: Nguyên bản và một số bản dịch Bát Nhã Tâm Kinh; phần hai: Cấu trúc của kinh; Phần ba: thông điệp của kinh, và phần bốn: nghi thức thọ trì kinh. Trong lần tái bản này, một vài chi tiết được sửa chửa và bổ sung so với bản in lần đầu mười năm trước đây, in vào năm 1997.

Sau cùng, ước mong bản dịch và những ghi chú về Tâm kinh này, một cách nào đó, giúp người đọc khơi gợi nguồn thiêng cảm nội tại và khát vọng thể nghiệm đời sống “xa rời cuồng si mộng tưởng”, một đời sống của thực tại-giải thoát. Nguyện đem công đức này, hướng về khắp muôn loài, cầu cho muôn chúng sinh, chóng viên thành Phật đạo.

Los Angeles, Mùa An Cư 2007
Khải Thiên

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28931)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20651)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19395)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30452)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36388)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33174)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35501)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20940)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21902)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25233)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25762)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31229)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18547)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25114)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23749)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28895)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20835)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31424)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25520)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29686)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25693)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23246)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23711)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23332)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22417)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22061)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23491)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16944)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23268)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41057)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18959)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20456)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27706)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38080)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34045)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36762)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23971)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29158)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60105)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27575)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68679)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24487)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24450)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22658)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26327)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26500)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20780)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20031)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27531)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46363)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53538)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23583)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21067)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25540)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29211)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188753)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant