Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 27076)
Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh

BẤT KHÔNG QUYẾN TÁC THẦN CHÚ TÂM KINH
* Đường Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch từ Phạn ra Hán văn.
* Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn. (1976)

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la, chiêm-bác-ca, a-du-ca, Cực giải thoát. Lại có vô lượng các cây báu xen nhau trang nghiêm chung quanh, hương thơm hoa đẹp, cỏ lạ mềm dịu nơi nơi đều có. Lại có vô lượng suối ao khe báu, có nước tám thứ công đức đầy dẫy, trong ấy các hoa đơm trổ trang sức một cách rất thích thú. Lại có vô biên các loại cầm thú khác nhau, hình dung thù diệu, đều đủ từ tâm, phát ra các thứ âm thanh dường như âm nhạc: cùng các vị Tỳ-khưu chúng 8.000 vị đều đầy đủ, 99 câu-chi na-du-da trăm ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, vô lượng trăm ngàn chúng chư Thiên cõi trời Tịnh Cư, Tự Tại Thiên chúng, vô lượng trăm ngàn trước sau vi nhiễu nghe Phật thuyết Pháp.

Lúc bấy giờ, trong hội có một vị Ðại Bồ-tát gọi là Quán Tự Tại từ tòa đứng dậy, sửa sang y phục, trịch vai áo một bên, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật, nét mặt vui vẻ, nở nụ cười mà bạch đức Phật rằng: “Con có thần chú tâm gọi là Bất Không Quyến Tác. Con ở thời xưa kia cách nay 91 kiếp, có thế giới gọi là Thù Thắng Quan, trong ấy có đức Phật gọi là Thế Chủ Vương Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Ðiều Ngự Sĩ, Phật, Bạc-già-phạm. Đức Phật Thế tôn kia thương xót con, cho nên vì con mà nói đại thần chú tâm này. Con liền thọ trìoai thần lực vậy, thường vì vô lượng TịnhThiên chúng, Tự Tại Thiên chúng, Ðại Tự Ðại Thiên Chúng, Ðại Phạm Thiên Vương và nhiều Thiên chúng, vô lượng trăm ngàn cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen, con đều giáo hóa họ, khiến họ đến thẳng đạo Vô thượng Bồ-đề Chánh Ðẳng Chánh Giác. Con nương sức công đức như thế nên liền thu hoạch mười ức Bất Không Diệu Trí Thượng Thủ Trang Nghiêm Ðại Tam-ma-địa. Do được định lực này hiện thấy mười phương vô lượng vô số chư Phật thế giới, hết thảy Như Lai và các chúng hội, đều đi đến cúng dường và nghe học Chánh pháp, lần lượt giáo hóa vô lượng hữu tình, đều khiến phát tâm thẳng đến Vô thượng giác, cho nên chú lực này không thể nghĩ bàn, hay cứu chúng sanh khỏi vô lượng khổ nạn, các kẻ hữu trí đều nên thọ trì.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu chỗ nào có thần chú tâm này thì phải biết là chỗ đó có Tự Tại Thiên, Ðại Tự Tại Thiên, Phạm Thiên Vương... làm thượng thủ, cùng 12 ức chư Thiên thần chúng thường cùng giữ gìn cung kính cúng dường chư Phật Chế-đa (tháp nhiều tầng) không khiến bạo ác, các quỷ thần thảy đều dạo chơi trong ấy.

Kính thưa đức Thế tôn! Tùy theo quốc ấp nào lưu hành Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh như thế, phải biết rằng trong quốc ấp ấy các loài hữu tình đã trồng các căn lành nơi vô lượng câu-chi na-du-đa trăm ngàn chư Phật, nay nương thừa đại nguyện lựctrở lại đây.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có chúng sanh tạo các trọng tội, tập hành ác pháp, hủy nhục Hiền thánh, phỉ báng Chánh pháp sẽ đọa trong Vô gián đại địa ngục, trải qua vô số kiếp thọ các kịch khổ. Chư Phật, Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn tuy đầy đủ thần thông mà không thể cứu vớt. Chúng sanh kia nếu nghe Tâm Kinh thần chú này hay sinh lòng hối hận trọn không dám tạo nữa. Nếu chúng sanh kia lại trải qua một ngày một đêm thọ trì trai giới tụng Tâm chú này thì hiện đời thọ nhẹ những tội nghiệp đã làm, không phải đọa Vô gián địa ngục. Tại sao chứng biết người kia hiện tại thọ nhẹ quả báo, không đọa địa ngục? Nghĩa là nếu thoạt gặp những bịnh lạnh nóng, hoặc trải qua một ngày, hai ngày, hoặc lại cho đến trải qua bảy ngày, hoặc bịnh mắt đau, tai đau, mũi đau, răng đau, môi đau, lưỡi đau, hoặc nướu đau, hoặc tim ngực đau, hoặc bụng rún đau, hoặc lưng vai đau, hoặc hông sườn đau, hoặc âm khoan đau, vế gối đau, hoặc chi tiết đau, hoặc tay chân đau hoặc đầu mặt đau, hoặc yết hầu cổ họng đau, hoặc vai cánh tay đau, hoặc gặp phong bịnh, khí bịnh, trĩ bịnh, lỵ bịnh, lâm bịnh, hoặc gặp suyễn bịnh, tiễn bịnh, bạch lại hắc lại bịnh và các giới tiễn (các loại lác); hoặc mắc phải bào sang, cam sang, hoa sang, lậu sang, độc sang, gặp ung thư, ung thủng, du thủng, đinh thủng, tiết thủng, độc thủng; hoặc bịnh điên giản, hoặc bịnh cam thấp; hoặc bị quỷ mỵ, hoặc bị trù ếm, hoặc bị chú trù rủa, hoặc bị độc dược, hoặc bị tù trói, bị gông cùm xiềng xích, hoặc bị đánh mắng, hoặc bị phỉ báng, hoặc bị mưu hại, hoặc bị khủng bố, hoặc lại gặp các việc tăng giảm bất nhiêu ích; tóm lại mà nói, đã có thân tâm bức thiết khổ não và thấy ác mộng, do đây chứng biết rằng người kia hiện thọ khinh báo, không bị đọa vào Vô gián địa ngục. Ðã tạo tội nghiệp thảy đều tiêu trừ, chúng sanh như thế, do chú lực đây, hiện đời thọ khinh báo, trọng tội thì được tiêu trừ, huống gì các hữu tình thân tâm thanh tịnh, nghe trì chú này mà không thu hoạch được phước báo hay sao, tội nghiệp đời trước cũng được tiêu trừ, hiện tại vị lai thường được an lạc sung sướng.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có bốn chúng hoặc bốn giòng họ ([1]) giả như đem tâm dua nịnh dối trá mà nghe học thần chú tâm kinh này, thọ trì đọc tụng chép viết cúng dường, vì người khác khen nói, khiến cho họ nghe nhận, cho đến tự mình đến bên tai của loài súc sanh khẩn thiết niệm tụng giúp cho chúng được nghe, lại còn thẩm xét suy tư chương cú thần chú này, không phỉ báng, không chấp giữ tướng, không phân biệt, không có các khởi tâm; không chậm hành trì, vô vi mà làm, xa lìa nhiễm ô, tâm bình đẳng, không tăng giảm, lìa ngủ uẩn. Người kia dựa vào phương tiện này ở chỗ chư Phật lại tu tùy niệm, và nhờ có sức công đức như thế, ở nơi mười phương, mỗi phương có ngàn Phật đến hiện trước mặt người ấy dạy dỗ khiến cho họ ăn năn, hối hận, trừ những tội đã làm trước kia, đã có sở nguyện gì đều khiến mãn túc.

Nếu không thể làm những điều ở trên đã nói, mà chỉ chép viết thần chú tâm Kinh này để trong nhà lễ bái cúng dường cũng được vô lượng vô biên công đức.

Thưa đức Thế tôn! Nếu có chúng sinh vì muốn thắng kẻ khác hoặc sợ chủ, hoặc sợ oán cừu, sợ ác thú, sợ ách nạn, hoặc theo kẻ khác, hoặc cầu cao quý, nhiều tài bảo, nghe học thần chú tâm Kinh như thế, mặc dù nghe học nhưng lại không cung kính, hoặc lại phỉ báng, khinh khi chê bai, thì người trí nên biết chẳng phải do tự lực của chúng sinh kia, mà là do oai thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát khiến chúng sinh ấy được nghe lọt vào tai, nhờ đó chúng sinh ấy hiện tại, vị lai được những việc lợi lạc như vậy.

 Kính thưa đức Thế tôn! Thí như có người đạp bẻ trầm hương hoặc lấy xạ hương hoặc vào trong rừng chiên đàn, long não hương… v.v, tuy phỉ báng, khinh khi chê bai các thứ nhưng lại mài trộn dùng để thoa thân thể. Tuy nhiên trầm hương, xạ hương lại không tác ý rằng “người kia đạp gãy lăng mạ, nên ta không cho họ mùi hương” mà cái tánh tự nhiên của trầm xạ là tiết ra mùi thơm. Thần chú tâm này cũng lại như thế. Tuy có phỉ báng, khinh tiện, chê bai hoặc là đem cái tâm dua nịnh, cong quẹo như trên đã nói, chép, viết, thọ trì, cung kính cúng dường thì cũng làm nhân duyên căn lành của người kia, khiến cho người kia đời đương lai tùy sinh chỗ nào đều đầy đủ công đức diệu hương của Giới Ðịnh Huệ, cũng hay vì kẻ khác mà làm những việc hương thơm đó. Vậy cho nên oai đức của thần chú này rất khó nghĩ bàn, tin báng gì cũng hay đều hay làm những việc nhiêu ích.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín,Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hoặc còn nhiều người khác nữa, vào ngày mùng 8 tháng bạch nguyệt, thọ trì trai giới chuyên tâm tụng đại thần chú tâm Kinh này cho đến bảy biến không xen tạp ngữ khác thì phải biết người đó hiện đời quyết định được 20 điều lợi ích thù thắng. Những gì là 20 điều?

1. Thân không có các bịnh, yên ổn sung sướng
2. Do những nghiệp lực đời trước tuy có bịnh sinh mà hay trừ lành
3. Thân thể mềm mại, nhỏ nhiệm, da thịt trắng trẻo đẹp đẽ, mắt mặt trong sáng
4. Mọi người kính thương
5. Mật hộ các căn
6. Thu hoạch nhiều tài bảo, tùy ý thọ dụng
7. Ðã có tài bảo, vương tặc thủy hỏa không thể xâm tổn
8. Ra làm sự nghiệp gì đều thành tựu tốt đẹp
9. Nếu có trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt
10. Nếu có ruộng lúa mạ bị tai hoạnh, lấy thần chú này chú trong tro sạch hoặc nước sạch trải qua bảy biến xong rồi, đem rải ở tám phương của ruộng kia, trên dưới mà kiết giới, tai hoạnh lúc bấy giờ đều liền bị trừ diệt
11. Không bị tất cả quỷ thần, La-sát bạo ác hớp đoạt tinh khí
12. Tất cả hữu tình thấy nghe hoan hỷ, ưa mến tôn trọng thường không biết nhàm chán
13. Thường không lo sợ tất cả oán cừu
14. Giả như có oán cừu, mau tự tiêu diệt
15. Nhơn cùng Phi nhơn... không thể xâm hại
16. Ếm mị, trù rủa, cổ đạo không dính vào thân
17. Phiền não, triền cấu, không thể hiện hành
18. Ðao độc, hỏa thủy không thể thương tổn
19. Chư Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ
20. Ðời đời không xa lìa từ bi hỷ xả

Người tu hành kia được 20 điều lợi ích thù thắng như thế. Lại còn thu hoạch được tám pháp nữa. Những gì là tám?

1. Khi mạng chung được thấy đức Quán Tự Tại Bồ-tát hiện tướng Tỳ-khưu đến trước mặt người trì chú này vui mừng khen ngợi, an ủy.
2. Mạng chung yên ổn, không có các điều đau khổ.
3. Khi sắp xả mạng, mắt không trợn ngược, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân lìa tướng mỏi mệt, không tiết ra những chất dơ uế của đại tiểu tiện, không rớt nghiêng xuống giường.
4. Khi sắp xả mạng thường an trụ chánh niệm, không loạn tưởng
5. Khi mạng chung không che mặt mà chết
6. Khi sắp xả mạng được vô tận biện
7. Ðả xả mạng rồi, tùy nguyện vãng sanh Tịnh độ của chư Phật
8. Thường cùng bạn lành không xa rời nhau.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành, người gái tín… vv, hay đoạn dứt rượu thịt và các thứ ngũ tân, không ăn chút tàn dư dơ uế, thân thường thanh khiết, ngày ngày ba thời chuyên tâm trì tụng Bất Không Quyết Tác thần chú tâm Kinh như thế, người kia được ngày đêm tăng trưởng công đức thù thắng.

Nếu hay đối với pháp xả lòng xan lẫn, lìa tâm tật đố, chuyên làm lợi lạc tất cả hữu tình, quán xem các chúng sanh có tâm hữu lực hay vô lực, tương ưng vì họ mà nói thần chú tâm Kinh này thì phải biết rằng những hạng người đó mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, được xem như ngang bằng các Ðại Bồ-tát. Những người đó gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề được nói đến có nghĩa là Bát-nhã, Tát-đỏa tức là phương tiện. Hai pháp như thế đối với các hữu tình hay làm tất cả lợi ích an vui.

Kính thưa đức Thế tôn! Con nay vì muốn lợi ích an vui cho tứ bộ chúng và vì trừ diệt tội nghiệp của những ác hữu tình, ở trước Như Lai muốn nói thần chú này, cúi mong đức Thế tôn thương xót cho phép con!”

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn dạy Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: “Ðại chúng thanh tịnh, đã đến lúc nên nói. Ta cũng tùy hỉ, thần chú tâm này là phụ mẫu của Bồ-tát đời đương lai, khiến Bồ-tát đã làm các sự nghiệp mau được thành tựu, cũng khiến tất cả những việc khủng bố mau được trừ diệt.”

Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát được đức Phật cho phép nên vui mừng hớn hở, chiêm ngưỡng Tôn nhan, mắt chưa tạm rời, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng: “Thần chú Tâm này là chỗ các Bồ-tát nên tôn trọng, cung kính cúng dường vì đó là tối Giải thoát viên mãn Pháp môn, làm lợi ích an vui cho các chúng sinh. Các vị muốn thọ trì Tâm chú này, nên trước hết kính lễ quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật và chư Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn. Lại nên kính lễ Chánh chí Chánh hạnh, lại nên kính lễ Xá-lợi… v.v., chư đại Thanh văn. Lại nên kính lễ Thánh Từ Thị… v.v., chư Ðại Bồ-tát. Lại nên kính lễ Vô Lượng Quang Phật. Lại nên kính lễ Phật Pháp Tăng bảo. Lại nên kính lễ thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Cụ Ðại bi giả. Ðã kính lễ rồi, lại nên niệm rằng: “Thần chú Tâm này gọi là Bất Không Quyến Tác, là Quán Tự Tại Bồ-tát ở trước đức Như lai tại trong đại chúng, thân tự diễn nói. Con nay đọc tụng, nhờ đó tất cả sự nghiệp mau được thành biện, khiến tất cả việc khủng bố mau bị trừ diệt”, khởi niệm ấy rồi tức đọc tụng rằng:

Ðát Ðiệt Tha: Ám Triết Lạc Triết Lạc, Chỉ Lí Chỉ Lí, Chủ Rô Chủ Rô
Khể thủ Cụ Ðại bi giả:
Tát Lạc Tát Lạc, Tử Lí Tử Lí, Chỉ Lí Chỉ Lí, Tỉ Lí Tỉ Lí
Khể thủ Ðại Liên Hoa Thủ:
Yết Lã Yết Lã, Kiết Lị Kiết Lị, Khuất Lộ Khuất Lộ
Khể thủ Ðại tịnh hữu tình:
Bột Ðiệt Bột Ðiệt, Tha Bà Tha Bà, Khẩn Ni Khẩn Ni
Khể thủ Cực tịnh hữu tình:
Yết Lạc Yết Lạc, Chỉ Lị Chỉ Lị, Củ Rô Củ Rô
Khể thủ Ðắc đại thế giả:
Triết Lã Triết Lã, San Triết Lã, San Triết Lã, Tì Triết Lã Tì Triết Lã, Y Triết Tra Y Triết Tra, Bạt Lạc Bạt Lạc, Tỉ Lị Tỉ Lị, Bộ Rô Bộ Rô, Y Hế Y Hế
Khể thủ Ðại bi Ðại thú Vương tướng
: Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Tát Lạc Tát Lạc, Triết Lạc Triết Lạc, Bác Lạc Bác Lạc, Hát Lạc Hát Lạc, Kha Kha Hế Hế, Hô Hô Ống Ca Lạc
Khể thủ Ðại Phạm Vương tướng:
Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Ðịa Lị Ðịa Lị, Ðổ Rô Ðổ Rô, Ðát Lạc Ðát Lạc, Tác Lạc Tát Lạc, Bác Lạc Bác Lạc, Phiệt Lạc Phiệt Lạc
Khể thủ Bách Thiên Quang Trang nghiêm thân:
Thập Phiệt Lã Thập Phiệt Lã, Ðáp Bá Ðáp Bá, Bạc-già-phạm
Khể thủ Nhật Nguyệt Diêm Ma Phiệt Rô Nõa Củ La Thích Phạm, dữ Tài Ðẳng Thiên Tiên chúng sở cúng dường chi:
Mạt Lạc Mạt Lạc, Nhỉ Lí Nhỉ Lí, Mẫu Rô Mẫu Rô, Tốt Rô Tốt Rô, Chủ Rô Chủ Rô
Khể thủ Tác Nại Ðồng Tử Rô Ðạt La Y Tỳ Sắc Nộ Ðạt Nại Ðà Tiên Na Dược Ca Tì Na Dược Ca chúng đa hình tướng
: Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Ðịa Lí Ðịa Lí, Ðổ Rô Ðổ Rô, Thác Lạc Thác Lạc, Yết Lạc Yết Lạc, Bát Lạc Bát Lạc, Xả Lạc Xả Lạc, Thứ Lạc Thứ Lạc, Hát Lạc Hát Lạc, Mạt Lạc Mạt Lạc, Phiệt Lạc Phiệt Lạc
Khể thủ Dữ nguyện Phổ Quán Thắng Quán Thế Tự Tại Ðại Tự Tại:
Mẫu Hô Mẫu Hô, Mẫu Rô Mẫu Rô, Mẫu Da Mẫu Da, Muộn Giá Muộn Giá, Lạc Xoa Lạc Xoa
Khể thủ năng linh ngã cập nhứt thiết hữu tình giải thoát nhứt thiết bố úy, giải thoát nhứt thiết yểm cổ, giải thoát nhứt thiết tai hoạnh, giải thoát nhứt thiết tật bịnh, giải thoát nhứt thiết tà mị vọng lượng giải thoát nhứt thiết oan gia sát phược khủng hát chúy dã, giải thoát nhứt thiết vương nạn tặc nạn, giải thoát nhứt thiết thủy hỏa phong nạn, giải thoát nhứt thiết đao độc đẳng nạn giả:
Yết Nõa Yết Nõa, Khẩn Ni Khẩn Ni, Khuất Nữu Khuất Nữu, Triết Lạc Triết Lạc
Khể thủ năng khai thị nhứt thiết căn lực giác chi đạo chi tứ thánh đế giả:
Ðáp Ma Ðáp Ma, Táp Ma Táp Ma, Mạt Ta Mạt Ta
Khể thủ năng trừ chư đại hắc ám, sinh trưởng mãn túc lục Ba-la-mật-đa giả:
Nhĩ Lí Nhĩ Lí, Tra Tra Tra Tra, Sá Sá Sá Sá, Trí Trí Trí Trí, Chú Chú Chú Chú
Khể thủ bị phục y nê da bì, cụ đại từ bi tự tại đại tự tại, năng phá nhứt thiết ác quỷ thần giả, tốc lai tốc lai cứu hộ ngã đẳng:
Củ Lô Củ Lô, Bác Lạc Bác Lạc, Tác Lạc Tác Lạc, Yết Lạc Yết Lạc, Yết Tra Yết Tra, Mạt Tra Mạt Tra
Khể Thủ Trụ Tịnh Ðộ Cụ Ðại Bi Giả, Thân Bội Bạch Kiết Tường Lũ, Cảnh Ðới Chúng Bảo Anh Lạc, Thủ Quan Hoa Man Bảo Quan, Ư Bảo Quan Trung Ðương Vu Ðảnh Thượng Hữu Nhứt Thiết Trì Tượng, Thủ Chấp Hi Hữu Ðại Bảo Liên Hoa, Ư Chư Tịnh Lự Ðẵng Trì Giải Thoát Chúng Diệu Công Ðức, Giai Bất Khuynh Ðộng, Thiện Năng Thành Thục Nhứt Thiết Hữu Tình, Cụ Ðại Từ Bi, Năng Trừ Nhứt Thiết Nghiệp Chướng, Năng Cứu Nhứt Thiết Bịnh Khổ, Phổ Năng An Ủy Nhứt Thiết Hữu Tình:
Ám Hiệt Lị Ðát Lai Lộ Ca Tỳ Ám Da. Úm Mộ Già Bá Xa, Hiệt Lị Ðạt Da, Úm Bát Lạc Ðể Hát Ða, Yểm Phái Tóa Ha, Nạp Mổ A Mộ Dà Da Tóa Ha, Nạp Mô A Thị Ða da Tóa ha, Nạp Mô A Bác, La Thị Ða Da Tóa Ha, Nạp Mô Phiệt Lạc Bát Lạc Trá Da Tóa Ha, Nạp Mồ Tát Bà Yết Ma Tất Ðạt Duệ Tóa Ha, Yểm Ðổ Da Tráng Tóa Ha.

Tụng thần chú tâm này quyết có linh nghiệm, hay thọ trì thần chú này, chỗ mong cầu đều thành tựu. Các vị cứ mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng 108 biến, ngũ vô gián tội quyết được trừ diệt. Tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh. Khi muốn tụng niệm, trước phải kiết giới. Muốn làm pháp kiết giới kia, lấy tro hoặc nước hoặc bạch giới tử (hạt cải trắng) hoặc đam sơn quyết ([2]) chú bảy biến khiến đóng bốn phương, thiêu trầm thủy hương, chí tâm niệm tụng. Các bịnh lạnh nóng và sốt rét nên chú trong dây gút 21 biến, đeo trên cổ hoặc đeo trên tay tức được trừ lành. Có các người bịnh, chú trong bơ, trong dầu hoặc là chú trong nước 21 biến khiến cho người bịnh ăn uống, liền được trừ lành.

Nếu muốn giải sự ếm đối trù rủa của kẻ khác, lấy bùn dẻo thanh tịnh hoặc bún hoặc mật hoặc sáp ong… v.v., làm hình tượng người ếm đối, niệm tụng chú này, tay cầm dao bén, phát lòng từ mẫn thương xót người ếm đối mà chặt cắt từng đoạn. Lại dùng thần chú, chú vào chỉ rồi đeo vào thân người bị ếm, khiến các sự sợ hãi liền được trừ lành.

Các bịnh đau bụng nên chú trong nước muối khiến cho người bịnh uống liền được trừ lành. Gặp các cổ độc hoặc rắn hoặc rít, sâu v.v., đã cắn mổ, chú trong nước khiến uống, chú trong bùn dẻo mà thoa, tức được trừ lành. Các bịnh đau mắt, nên chú vào sợi chỉ trắng đeo trên tai của người bịnh, liền được trừ lành. Có các bịnh răng nướu, đau nhức nên chú trong cây Yết-la-tỉ-la 21 biến rồi bỏ vào miệng mà nhai, đều được trừ lành.

Các chỗ sợ hãi, nên phải kiết giới mà ở trong đó, giới pháp kết kia được thực hiện bằng cách chú trong chỉ ngũ sắc 21 biến, đem giăng trên cái cọc nhọn đã được đóng sâu ở bốn góc, liền được không sợ hãi. Muốn tự hộ các việc cho mình, nên lấy chú này chú vào chỉ mà đeo trong thân thể, hoặc chú trong nước tro tán sái trên thân. Có các quỷ thần, mị bắt bớ nơi thân, chú chỉ ngũ sắc thường dùng đeo bên mình, tức các quỷ mị này liền xả ly.

Tất cả bịnh hoạn ghẻ, thủng v.v., lấy lá Tất-bát-mạt (một loại lá lốt) hòa với mật chú 21 biến, dùng thoa tức được lành. Các bịnh hoạn về con mắt, nên chú trong hương thủy hoặc cam thảo thủy, Bát-lã-xa thủy 21 biến rồi rửa mắt, tức được trừ lành. Các bịnh về tai mũi, nên chú trong dầu nóng 21 biến, nhỏ vào trong lỗ tai, lỗ mũi tức được trừ lành.

Có các sự đấu tranh, oán cừu, mưu toan, các việc quan sự ép ngặt nên chú trong nước tịnh thủy 21 biến, rửa mặt sái thân, tức được hòa giải.

Khi có tai nạn khởi lên trong các quốc độ, vương đô thành ấp, nên kết đạo tràng, ngưu phẩn đồ địa, nước hương thơm rưới sái khắp nơi trong đạo tràng, ở bốn góc, mỗi góc để một bình, trong bình kia để hoa và nước, lấy cỏ thanh tịnh mới trải khắp đạo tràng, trưng bày những trái ngon quả ngọt, đồ ẩm thực khắp đạo tràng, bày bốn bánh đèn, dầu, hương thơm, tịnh chú thắp lên để bốn góc, lấy các danh hoa rải khắp trong đạo tràng, thiêu đốt thượng diệu hương mà cúng dường. Người tụng chú dùng nước hương thơm tắm rửa thân thể, mặc y mới thanh tịnh, tòa ngồi sạch sẽ, đoan thân chánh niệm tụng Tâm chú này. Nếu chủ nhân chí thành thì tai nạn liền dứt.

Có các tật dịch, yêu quái nổi lên các xứ v.v., chú trong bình nước sái chỗ ấy và thân, tất cả tai hoạn thảy đều trừ diệt. Nếu bị ma mị, lấy nước trong bình, mài Chiên đàn hương chú 21 biến dùng xoa trên tâm, ma mị liền dứt. Nếu thường niệm tụng thần chú tâm này, tứ trọng, ngũ nghịch, báng pháp, các chướng thảy đều trừ diệt. Muốn hộ nước nhà khiến không tai ách, nên lấy hoa sen 108 cái, mỗi cái chú một biến bỏ vào bên trong hỏa đàn cúng dường hiền thánh, tai ách tức diệt, nước nhà yên ổn.

Nếu muốn kẻ khác phát lòng từ tâm không sanh tị hiềm tật đố, nên lấy 108 khúc Chiên đàn hương dài hai tấc Tàu. Mỗi khúc chú một biến, bỏ vào trong hỏa đàn cúng dường hiền thánh, hay khiến cho người kia thương mến mà không sân hận.

Nếu sợ dịch tật quỷ mị bắt bớ nơi thân, nên lấy đổ-da dược, tỳ-đổ-da dược, na-củ-la dược, kiền-đà-na-củ-la dược, bà-thích-ni dược, úm-bạt-da-ba-ni dược, nhân-đạt-la-ba-ni dược, kiền-đà-tất-lị-dạn-cù dược, huyệt-yết-lam dược, nghiên-ngật-la dược, tỳ-sắc-nổ-ngật-lang-đa dược, tố-ma-la-thời dược, tố-nan-đà dược, xà-diên-để-được, bạch đàn hương dược, xá-lị-ma dược, xá-lị-bà dược, yết-tất-để-bà-thích-ni dược, yết-lệ-thứ-ca dược, kiền-đà-hiệt-yết dược, kim cang dược, hắc-lam dược, phiệt-lã-kha-khất-lan-đa dược, các thứ thuốc dược như vậy đâm rất nhỏ và rây cho thật mịn, làm hoàn hình lớn như trái táo chú 108 biến để nơi trên đảnh hoặc đeo nơi hai tay, tật dịch quỷ mị đều không dính thân.

Nếu có trẻ nhỏ bị tà khí vọng lượng làm giật mình sợ hãi, chú trong hoàn thuốc này 108 biến, rồi đeo dưới yết hầu, trẻ không giật mình sợ hãi nữa. Nếu có người nữ bạc phước đã đến tuổi mà mọi người thấy đều chán ghét, chú trong hoàn thuốc này 108 biến hòa trong nước tắm rửa nơi thân, ác tướng đều trừ, mọi người yêu kính, thân uế ác bịnh cũng được trừ lành. Nếu có các người phụ nhơn cầu sanh con trai, chú trong hoàn thuốc này 108 biến đeo trên thân, hoặc hòa với nước mà tắm, liền được sanh con trai.

Nếu chú hoàn thuốc này mà đeo trên thân thì đao độc, thủy hỏa, ác thú, oan gia, ếm mị, cổ đạo, hết thảy tai hoạnh đều không làm hại. Nếu bịnh hoạn ghẻ, ung thư, chú hoàn thuốc này 108 biến hòa với nước thoa chỗ ấy, liền được trừ lành.

 Nếu gặp ác phong bạo vũ, sương muối, mưa đá, chú trong nước thanh tịnh 21 biến, tán sái bốn phương, hoặc chú trong nhánh cây Yết-la-tì-la 21 biến miệng vẫn tụng chú, hướng về bốn phương mà quơ qua lại thiên tai liền đỉnh chỉ.

Ðại thần chú tâm Quán Tự Tại này tuy không thọ trì chỉ y pháp trước mà tụng thì quyết có linh nghiệm. Nếu hay thọ trì thì ra làm sự nghiệp gì, không việc gì mà không thành tựu tốt đẹp. Người muốn thọ trì, lấy lụa trắng mới, dài mưới thước Tàu, rộng năm thước Tàu, nguyên tấm vải không ráp nối, dùng họa tượng Phật, dùng màu sắc hòa với keo hương dẻo, ngoài ra các thứ keo khác không được dùng.

Bên hữu tượng Phật vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát giống như Ðại Tự Tại Thiên, đảnh đầu có búi tóc, đội mão hoa, phủ áo phía cánh tay trên bên tả, dùng anh lạc, vòng xuyến để trang nghiêm các phần của thân thể. Vị họa sư cần phải tắm rửa bằng nước hương thơm sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, chớ ăn các món tạp uế, chuyên tinh trai giới, họa vẽ ở nơi tịnh thất. Nên đem tượng này để trong tịnh thất thanh tịnh, nơi trước tượng kia, ngưu phẩn đồ địa bề ngang bề rộng chừng một trượng 90, bốn phương vuông vức bằng nhau, ở nơi trong đàn kia tán rải hoàn toàn hoa trắng. Lấy tám cái bình thanh tịnh, mỗi cái chừng một lít đựng đầy hoa, hương thủy an trí tám phương. Lại ở nơi tám phương đó, trải tám tòa bằng cỏ, trên mỗi tòa để một phần thực; và ở bên tám tòa, mỗi một cái để tám phần thực. Món ăn cúng dường đó phải là những món ngon nhất trên đời được dùng để cúng dường, chỉ trừ ngũ tân, huyết nhục, tửu và các thứ tạp uế vật.

Lại thiêu trầm hương chí thành cúng dường. Người thọ trì chú, trước hết ba ngày ba đêm đoạn thực; nếu không nhịn được, thì chỉ một ngày một đêm không ăn, mỗi ngày ba thời, tắm rửa sạch sẽ. Sau khi đại tiểu tiện, phải tắm gội sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, ăn ba thứ bạch thực là sữa, bơ và gạo trắng ngon nhất. Ăn rồi súc miệng, xỉa răng sạch sẽ, đi đến trước tượng Phật thiêu trầm thủy hương chí thành đảnh lễ, chuyên tâm tụng Ðại thần chú tâm này mãn 8.000 biến. Bấy giờ hành giả tự thấy thân mình phóng hào quang sáng cũng như hỏa diệm sơn, thấy việc đó rồi vui mừng hớn hở. Lúc ấy Quán Tự Tại liền hiện trước mặt người kia, tùy sở nguyện cầu đều khiến mãn túc.

Nếu muốn tự ẩn, nên chú trong hùng hoàng hoặc an-thiện-na mãn 8.000 biến, nghiền làm bột lấy thoa nơi con mắt. Nếu muốn bay lên hư không, nên dùng bột này xoa dưới chân. Do chú lực này, hành giả chứng Bất Không trí mà làm bậc Thượng thủ Trang nghiêm Ðẳng trí 3. Ðã chứng được định trì này rồi, phàm ra làm sự nghiệp gì hết thảy đều thành tựu tốt đẹp.”

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn khen ngợi Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay! Ông nay thương xót tất cả hữu tình mà nói thần chú này để khiến họ đều được lợi ích an vui. Ta càng rất vui mừng”.

Khi Bạc-già-phạm nói lời ấy rồi, Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát, Tịnh Cư Thiên chúng, Tự Tại Thiên chúng, Ðại Tự Tại Thiên Chúng, Đại Phạm thiên vươngthiên chúng, Thanh văn và Bồ-tát đều đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 Bất Không Quyến Tác thần chú tâm kinh
(hết)
Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán văn ra Việt văn (1976), bản nháp, chưa chỉnh sửa.

Đánh máy vi tính: Chúc Huy Nguyễn Minh Hoàng, Chúc Hiền Nguyễn thị Diệu Minh.


[1] Bốn đẳng cấp của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, là Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

[2] Cọc để ếm, là một khúc cây ở trên núi, được chuốt nhọn một đầu.

3. Bất Không Diệu Trí Thượng thủ Trang nghiêm đại tam-ma-địa.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28931)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20651)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19396)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30453)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36388)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33176)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35502)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20941)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21902)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25234)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25763)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31230)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18547)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25118)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23749)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28903)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31424)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25521)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29687)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25693)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23246)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23711)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23332)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22422)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22063)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23492)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16945)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23268)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41057)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18959)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20459)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27706)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38082)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34045)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36763)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23971)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29160)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60105)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27576)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68682)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24487)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24450)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22659)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26327)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26500)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20781)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20032)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27531)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46367)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53538)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23583)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21067)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25541)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29214)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188764)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant