Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Phẩm thứ hai: Bát nhã

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12175)
2. Phẩm thứ hai: Bát nhã

KINH PHÁP BẢO ĐÀN
HUỆ NĂNG LỤC TỔ

Soạn thuật: Pháp Hải - Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải

PHẨM THỨ HAI
BÁT NHÃ

Hôm sau, Sứ quân họ Vi thỉnh Sư giảng pháp, Sư thăng pháp tòa bảo đại chúng:

- Tất cả hãy tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Lại bảo:

- Thiện tri thức! Trí Bồ đề Bát nhã thế nhân vốn sẵn có, chỉ do tâm mê không thể tự ngộ, mới phải nhờ đại Thiện tri thức khai thị cho. Nên biết nơi người ngu kẻ trí, Phật tánh vẫn không khác, chỉ vì mê ngộ không đồng mà có ngu có trí. Tôi nay nói pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, khiến cho các người được trí tuệ. Hãy chí tâm lắng nghe, tôi sẽ nói:

Thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã, mà không biết tự tánh Bát nhã, thì cũng như miệng nói ăn, bụng làm sao no được. Chỉ nói không ngoài miệng thì vạn kiếp cũng không kiến tánh, rốt cuộc không ích gì.

Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là tiếng Phạm, Trung Hoa dịch là Đại trí tuệ đáo bỉ ngạn. Đây cốt tâm hành, không cốt miệng niệm, miệng niệm tâm không hành như huyễn như hóa, như sương như chớp. Miệng niệm tâm hành, thì tâm miệng xứng nhau, bản tánh là Phật, lìa tánh không có Phật nào khác.

Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không bờ bến, không vuông tròn, lớn nhỏ, không xanh vàng đỏ trắng, không trên dưới ngắn dài, không giận, không vui, không phải, không trái, không thiện, không ác, không có đầu đuôi. Các cõi Phật đều như hư không, diệu tánh người đời vốn là không, không có một pháp nào thật có. Tự tánh chơn không cũng như vậy.

Thiện tri thức! Chớ nghe tôi nói không, bèn chấp vào không, cốt nhất đừng chấp không. Nếu không tâm mà tĩnh tọa, tức vướng vào cái không vô ký. Thiện tri thức! Hư không có thể dung chứa vạn vật hình tượng, nhật nguyệt tinh tú, sông núi đất liền, khe nguồn đầm suối, cỏ cây rừng rậm, kẻ thiện người ác, ác pháp thiện pháp, thiên đường địa ngục, hết thảy biển lớn và núi Tu Di đều ở trong hư không. Tánh không của người đời cũng vậy.

Thiện tri thức! Tự tánh có khả năng hàm chứa vạn pháp nên gọi là Đại, vạn pháp ở trong nhân tánh. Nếu thấy sự thiện ác của mọi người, mà tuyệt đối không lấy không bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm như hư không, ấy gọi là Đại, nên gọi Ma Ha.

Thiện tri thức! Người mê nói ngoài miệng, bậc trí hành trong tâm. Lại có người mê, không tâm tĩnh tọa, trăm điều không nghĩ tới, tự xưng là đại, hạng người ấy không nên nói tới, vì đó là hạng tà kiến.

Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả, khứ lai tự do, tâm thể không ngại, ấy là Bát nhã. Thiện tri thức! Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh sanh, không từ ngoài vào, chớ dụng ý sai lạc, ấy gọi là chơn tánh tự dụng. Một chơn hết thảy đều chơn, tâm lượng là để dung chứa đại sự, không phải để làm những chuyện tiểu tiết[1]. Miệng chớ suốt ngày nói không mà trong lòng không tu hạnh ấy, khác nào dân thường tự xưng vua chúa, rốt cuộc chẳng được cái gì. Hạng ấy không phải đệ tử tôi.

Thiện tri thức! Bát nhã là gì? Bát nhã đời Đường dịch là trí tuệ. Ở mọi nơi mọi lúc, niệm niệm không ngu, thường thực hành trí tuệ, gọi là hành Bát nhã. Một niệm ngu, thì Bát nhã dứt, một niệm trí thì Bát nhã sanh. Người đời ngu mê không thấy Bát nhã, miệng nói Bát nhã mà trong tâm thường ngu, miệng thường tự bảo tôi tu Bát nhã, thường nói không, thì đó không phải chơn không. Bát nhã không hình tướng đấy là cái tâm có trí tuệ. Nếu hiểu như vậy thì gọi là trí Bát nhã.

Sao gọi là Ba La Mật? Đời Đường dịch là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt khởi, như nước có sóng, đó là bờ này. Lìa cảnh thì không sanh diệt, như nước chảy thông, gọi là bờ kia, nên nói là Ba la mật. Thiện tri thức! Người mê miệng niệm, mà trong tâm nghĩ điều sai quấy. Nếu có thực hành trong từng niệm, ấy gọi là chơn tánh. Ngộ pháp ấy gọi là ngộ Bát nhã, tu hạnh ấy gọi là hành Bát nhã, không tu là phàm phu, một niệm tu hành thì tự thân đồng với Phật.

Thiện tri thức! Phàm phu tức là Phật, phiền não tức Bồ đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ là Phật. Niệm trước vướng cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh là Bồ đề. Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không ở, không đi, không đến, ba đời chư Phật từ đó mà ra. Hãy vận dụng Đại trí tuệ mà đả phá phiền não trần lao ngũ ấm. Tu hành như vậy nhất định thành Phật, biến ba độc thành Giới Định Tuệ.

Thiện tri thức! Pháp môn này của tôi từ một Bát nhã mà sanh ra tám vạn bốn ngàn trí tuệ. Vì sao? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu khôngtrần lao thì trí tuệ thường hiện, không lìa tự tánh. Ngộ được pháp này tức là vô niệm. Không nhớ không đắm, không khởi cuồng vọng, dùng cái tánh chơn như của mình, lấy trí tuệ quán chiếu, đổi hết thảy pháp không lấy không bỏ, tức là kiến tánh thành Phật.

Thiện tri thức! Muốn vào pháp giới thậm thâmBát nhã Tam muội, thì phải tu hạnh Bát nhã, trì tụng Kinh Kim Cang, sẽ được kiến tánh. Nên biết công đức này vô lượng vô biên, trong Kinh có khen ngợi rõ ràng, không thể nói xiết. Pháp môn này là tối thượng thừa, vì kẻ đại trí mà nói ra. Người căn nhỏ, trí nhỏ nghe thì tâm không tin, vì sao? Thí như Thiên Long giáng mưa cõi Diêm phù đề, thì thành ấp làng xóm đều tràn trề nước chảy, nếu mưa trên biển lớn thì không giảm không tăng. Hạng người Đại thừa, Tối thượng thừa nghe nói Kinh Kim Cang tâm liền khai ngộ, nên biết tự bản tánh có sẵn trí bát nhã, thường tự dùng trí tuệ quán chiếu nên không nương văn tự. Trăm sông ngàn dòng đều đổ vào biển làm một, trí Bát nhã bản tánh chúng sanh cũng vậy. Thiện tri thức! Kẻ căn nhỏ nghe Đốn giáo này thì như cây cỏ, gốc nhỏ bị mưa lớn phải gãy, không thể lớn lên. Kẻ tiểu căn cũng thế, vốn có trí Bát nhã không khác gì bậc đại trí, nhưng vì sao nghe pháp lại không tự khai ngộ được? Chính vì chướng ngại tà kiến nặng, gốc phiền não sâu, như đám mây lớn che cả mặt trời, gió không thổi tan được nên ánh sáng không hiện ra. Trí Bát nhã cũng không có lớn nhỏ, nhưng vì chúng sanh tự tâm mê ngộ không đồng.

Người mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật, chưa ngộ tự tánh đấy là tiểu căn. Nếu khai ngộ Đốn giáo không chấp sự tu bề ngoài, chỉ nơi tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao không làm ô nhiễm được, tức là kiến tánh.

Thiện tri thức! Trong ngoài không trú, lai khứ tự do, trừ tâm chấp trước, thông suốt không ngăn ngại, nếu tu được hạnh ấy thì không trái với Kinh Bát Nhã. Hết thảy Khế Kinh, văn tự của Đại thừa, Tiểu thừa gồm 12 bộ loại, đều do người mà lập ra, do bản tánh trí tuệkiến lập. Nếu không có người, thì hết thảy vạn pháp đều không có. Cho nên phải biết vạn pháp vốn do người mà hưng khởi, hết thảy Kinh sách đều do người mà lập. Do vì trong loài người có người ngu người trí, ngu là tiểu căn, trí là đại căn. Người ngu hỏi người trí, người trí nói pháp cho người ngu, tâm người ngu bỗng được khai phát, thì khi ấy kẻ ngu không khác gì người trí. Thiện tri thức! Chưa ngộ thì Phật ẩn mất trong chúng sanh, ngộ rồi thì chúng sanh thành Phật. Cho nên phải biết vạn pháp đều ở tự tâm, sao không do nơi tâm mà thấy ngay chơn như bản tánh. Kinh Bồ Tát Giới dạy: “Ta xưa nay tự tánh thanh tịnh”. Ai biết được tự tâm, thấy được bản tánh, thì đều thành Phật đạo. Kinh Tịnh Danh nói: “Tức ngay lúc ấy được lại bản tâm”.

Thiện tri thức! Tôi xưa nay ở nơi Hòa thượng Hoằng Nhẫn, vừa nghe qua một lời mà được ngộ, thấy được chơn như bản tánh, nên mới đem giáo pháp này lưu truyền cho những người học đạo đốn ngộ được trí Bồ đề. Hãy tự quán tâm, tự thấy bản tánh. Nếu tự mình không ngộ, thì phải tìm bậc Đại thiện tri thức, bậc giảng giải pháp Tối thượng thừa để nhờ chỉ thẳng đường chánh. Bậc Thiện tri thứcnhân duyên lớn, giáo hóa dẫn dắt khiến cho được kiến tánh. Hết thảy thiện pháp đều nhờ Thiện tri thức mà có thể phát khởi. Chư Phật ba đời, 12 bộ Kinh đều sẵn đủ trong tâm tánh. Nếu không có thể tự ngộ thì phải cầu Thiện tri thức chỉ dạy phương tiện cho. Người tự ngộ được thì không phải nhờ bên ngoài. Nhưng cứ một bề chấp cần phảiThiện tri thức mới mong giải thoát thì phi lý. Vì sao? Vì tự tâm vốn sẵn đủ cái tri thức để tự ngộ. Nếu khởi tà mê, vọng niệm điên đảo thì dù có Thiện tri thức bên ngoài dạy bảo, cũng không cứu được. Nếu khởi trí Bát nhã chơn chánh quán chiếu, thì ngay trong một sát na, vọng niệm tiêu diệt. Nếu biết được tự tánh, một phen ngộ rồi liền đến đất Phật.

Thiện tri thức, trí tuệ quán chiếu thì trong ngoài trong suốt, tự biết được bản tâm tức là căn bản giải thoát, mà được giải thoát tức là Bát nhã Tam muội, Bát nhã Tam muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy hết cả pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà không vướng mắc chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức đi ra sáu cửa, đối với sáu trần không nhiễm, đến đi tự tại thông dụng vô ngại, ấy tức là Bát nhã Tam muội, tự tại giải thoát mới gọi là hạnh vô niệm. Nếu trăm việc không nghĩ tới, khiến cho dứt niệm, thì ấy là bị pháp trói buộc, gọi là thấy một bên.

Thiện tri thức! Người ngộ được pháp vô niệm này thì vạn pháp đều thông, người ngộ được pháp vô niệm thì thấy được cảnh giới chư Phật. Người ngộ được pháp vô niệm thì đến được địa vị chư Phật.

Thiện tri thức! Đời sau, người được pháp của tôi hãy đem pháp môn đốn giáo này đối trước người đồng kiến đồng hànhphát nguyện thọ trì như phụng thờ chư Phật. Nếu trọn đời không thối chuyển thì nhất định được vào địa vị bậc Thánh. Nhưng cần phải trao truyền, không được ẩn giấu chánh pháp. Nếu không gặp người đồng kiến đồng hành, thì không được truyền, hại cho người kia mà rốt cuộc vô ích, sợ kẻ ngu không hiểu, chê bai pháp môn này mà trăm kiếp ngàn đời phải đoạn mất giống Phật.

Thiện tri thức! Tôi có một bài tụng Vô tướng, hãy nên tụng trì. Người tại gia, xuất gia chỉ cần nương đây mà tu hành. Nếu không tự tu, chỉ nhớ suông lời nói của tôi thì cũng vô ích. Hãy nghe tôi tụng:

Nói thông và tâm thông
Như nhật nguyệt trên hư không
Chỉ truyền pháp kiến tánh
Ra đời phá tà tông
Pháp khôngđốn tiệm
Mê ngộ có chậm mau
Chỉ pháp kiến tánh này
Kẻ ngu không hiểu thấu
Nói ra tuy vạn thứ
Lý chỉ qui về một.
Nhà phiền não tối tăm
Thường nên sanh tuệ nhật
Tâm tà, phiền não đến
Tâm chánh, phiền não trừ
Tà chánh đều không vướng
Thanh tịnh đến Vô dư
Tự tánh vốn Bồ đề
Khởi tâm tức thành vọng
Tịnh tâm ngay nơi vọng
Chánh ý tiêu ba chướng
Người đời muốn tu đạo
Không có gì ngại ngăn
Thường tự thấy lỗi mình
Thì phù hợp với đạo
Mỗi loài tự có đạo
Vốn không ngăn bức nhau
Lìa đạo riêng tìm đạo
Suốt đời không thấy đạo
Bôn ba qua một đời
Rốt cùng phai áo não
Muốn thấy được chơn đạo
Làm chánh ấy là đạo
Tự mình không tâm đạo
Như đêm không thấy đường
Nếu người thật chơn tu
Không thấy lỗi thế gian
Nếu thấy người khác sai
Lỗi mình ngay bên tả
Người quấy ta đừng quấy
Ta quấy tự có lỗi
Chỉ bỏ tâm tà phi
Thì phá trừ phiền não
Ghét yêu chớ quan tâm
Duỗi dài chân nằm nghỉ
Muốn hóa độ cho người
Mình phải có phương tiện
Chớ để người nghi hoặc
Thì tự tánh hiện bày
Phật pháp ở torng đời
Không lìa đời giác ngộ
Lìa đời tìm chánh giác
Chẳng khác tìm sừng thỏ
Chánh kiếnxuất thế
Tà kiếnthế gian
Tà chánh đều bỏ hết
Tánh Bồ đề rỡ ràng
Tụng này là Đốn giáo
Cũng là Đại pháp thuyền
Mê nghe Kinh trọn kiếp
Ngộ chỉ một sát na.

Tổ lại dạy:

- Nay tại chùa Đại Phạm tôi nói pháp Đốn giáo này, xin nguyện chúng sanh khắp pháp giới, ngay nơi lời nóikiến tánh thành Phật.

Bấy giờ quan Thứ sử họ Vi cùng các quan liêu, xuất gia, cư sĩ, nghe lời Sư dạy, không ai chẳng tỉnh ngộ, đồng thời đảnh lễ tán thán: Hay thay! Ngờ đâu đất Lãnh Nam này có Phật xuất thế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22312)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16031)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15042)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14456)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18641)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14438)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13601)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13562)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13278)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13677)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13260)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11091)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16468)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11929)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17609)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12885)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13725)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14865)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16403)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13139)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12106)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12782)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12929)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14187)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16494)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12391)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14400)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11045)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13203)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13173)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13013)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13979)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13713)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16277)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11980)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11016)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10956)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12778)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11077)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12634)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant