Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Địa

02 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 29122)
Kinh Phật Địa

KINH PHẬT ĐỊA

Hán dịch: Đại Đường Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang


Tôi nghe như vầy, một hôm Đức Phật trụ vào ánh sáng vi diệu tuyệt vời (với) bảy báu trang nghiêm, rồi phóng vừng hào quang chiếu khắp tất cả thế giới vô biên, làm đẹp vô lượng cõi nước hoàn toàn không giới hạn. Ánh sáng tuyệt vời kia vượt thoát chỗ sở hành của ba cõi, vượt ngoài khởi (tưởng) của thiện căn thế gian, là tướng tịnh thức vô cùng tự tại.

Ở nơi tướng sáng Như Lai, các chúng Đại Bồ tát cùng vân tập, các vị trời, rồng, nhơn và phi nhơn… nhiều không kể hết cũng thường theo hầu, vâng giữ pháp vị hỷ lạc rộng lớn, làm tất cả điều lợi ích cho các chúng sinh, diệt những phiền não triền cấu nghiệt ngã, rời xa chúng ma bằng sự trang nghiêm đó.

Ở nơi sở y Như lai trang nghiêm là đại Niệm, Huệ, Hành dùng làm du lộ, đại Chỉ và diệu Quán dùng làm phương tiện, đại Không, Vô tướng, Vô nguyệnGiải thoát là chỗ nhập môn, các sự trang nghiêm công đức nào thể suy lường.

Ở nơi kiến lập chúng Đại Bảo Hoa Vương, bên trong đại cung điện là Đức Phật Tối Thanh Tịnh Giác, hiện hạnh bất nhị nơi pháp vô tướng, trú vào Phật trụ, đạt được tất cả Phật tánh bình đẳng và đến được nơi không còn ngăn trở. Chuyển pháp vi diệu, hành tung vô ngại, nơi thành lập đó không thể nghĩ bàn.

Đi qua ba đời Pháp tánh bình đẳng, Phật thân trải khắp tất cả thế giới, không còn nghi ngờ và hạn cuộc đối với tất cả Pháp trí, thành tựu Đại giác trong tất cả hạnh, không còn nghi hoặc đối với Pháp trí, ở chỗ hiện thân không thể phân biệt. Tất cả hàng Bồ tát Chánh Sở Cầu Trí đạt được Phật tâm không hai, trú ở bờ kia cao tột, không có xen tạp các tướng. Như lai (đã) giải thoát với diệu trí rốt ráo, sự chứng ngộ không có ngằn mé, Phật địa bình đẳng tuyệt cùng pháp giới, tánh khắp hư không xuyên suốt vị lai, cùng các chúng Đại thanh văn tụ hội nhiều không thể tính, tất cả các vị đã được điều hòa và là Phật tử.

Ở nơi Tâm thiện giải thoát, Tuệ thiện giải thoátGiới thiện thanh tịnh, các vị này ước muốn nghe nhiều và ghi nhận Pháp lạc. Sự nghe tích tập thì khéo suy tư nơi điều suy tư, khéo nói nơi việc nói, khéo làm nơi việc làm, thành tựu các tuệ bảo như: Tiệp tuệ, Tốc tuệ, Lợi tuệ, Xuất tuệ, Thắng quyết trạch tuệ, Đại tuệ, Quảng tuệVô đẳng tuệ, đầy đủ Ba minh, đạt được Đệ nhất Hiện pháp lạc, trú vào Ruộng phước thanh tịnh vĩ đại, thành tựu đầy đủ uy nghi tịch tĩnh Đại nhẫn nhu hòa, đã khéo phụng hành Thánh giáo của Như lai.

Còn có thêm vô lượng chúng Bồ tát lớn từ các cõi Phật đến tập họp đủ, các vị này trụ ở Phương tiện, rong du trên Pháp Đại thừa, tâm của các Ngài thì bình đẳng đối với các chúng sinh, xa lìa sự phân biệt và chẳng phân biệt đối với các loại phân biệt, bẽ gảy các sự tà vạy, lìa hẳn tất cả hệ niệm phân biệt của hàng Thanh văn Độc giác, đã nắm bắt được Pháp vị hỷ lạc rộng lớn, vượt qua năm sự sợ hãi, chỉ hướng đến bực Bất thối chuyển, đã dứt được tất cả tâm bức bách khổ não của chúng sinh và có mặt trong lúc này; trong đây Bồ tát Diệu sanh là vị Thượng thủ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Diệu Sanh rằng, Diệu Sanh ông nên biết, có năm loại pháp thâu tóm Đại giác địa (tâm). Năm pháp đó là gì?

Đó gọi là Thanh tịnh pháp giới, Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí, và Thành sở tác trí.

Diệu Sanh ông nên biết, Thanh tịnh pháp giới đó ví như hư không, tuy trong đó biến ra nhiều loại sắc tướng nhưng không thể nói rằng có các hình tướng vì thể (của nó) chỉ có một vị.
Như Lai Thanh tịnh pháp giới cũng giống như thế, dù có biến ra nhiều loại hình tướng, rõ biết cảnh giới, nhưng không thể nói rằng có nhiều hình tướng, vì thể của (Như Lai) chỉ có một vị.
Và như hư không tuy biến ra các sắc nhưng không có tướng để lìa bỏ, và không bị sắc kia làm cho ô nhiễm; Như lai Thanh tịnh pháp giới cũng giống như thế. Tuy hóa hiện ra tất cả tâm tánh chúng sanh, bởi là chân thật, không có tướng để lìa bỏ, và cũng không bị sắc kia làm cho ô nhiễm.

Và như hư không hàm dung tất cả nghiệp thân miệng ý, nhưng hư không này không có khởi tác, Như Lai Thanh tịnh pháp giới cũng giống như thế, bao gồm tất cả trí tuệ biến hóa ích lợi chúng sanh, pháp giới thanh tịnh thì không có khởi tác.

Và như hư không có nhiều loại sắc tướng lúc sanh lúc diệt, nhưng hư không ấy không sinh không diệt, ở trong Như Lai Thanh tịnh pháp giới, trí tuệ biến hóa lợi ích chúng sanh nên có sinh có diệt, nhưng pháp giới thanh tịnh không hề sinh diệt.

Và như hư không có nhiều sắc tướng lúc tăng lúc giảm, nhưng hư không ấy không tăng không giảm, ở trong pháp giới vắng lặng của Như Lai cũng thế, thị hiện Như laiThánh giáo cam lồ có tăng có giảm, nhưng pháp giới thanh tịnh không hề tăng giảm.

Và như hư không hiện hữu mười phương sắc tướng không cùng không tận, là cõi hư không không có giới hạn, và hư không ấy chẳng đến chẳng đi chẳng động chẳng chuyển, ở trong pháp giới vắng lặng của Như Lai cũng giống như thế, hóa độ mười phương tất cả chúng sinh lợi ích an lạc, nhiều loại tác dụng không có giới hạn, thanh tịnh pháp giới cũng không giới hạn, và pháp giới ấy không đến không đi không động không chuyển.

Và như ba ngàn đại thiên thế giới trong hư không lúc hoại lúc thành, nhưng cõi hư không nào có thành hoại, ở trong cõi giới thanh tịnh của Như Lai cũng giống như thế, hiện vô lượng tướng thành Đẳng chánh giác, hoặc thị hiện nhập Đại niết bàn, nhưng Pháp giới vắng lặng chẳng có Thành chánh đẳng giác hay Nhập niết bàn.

Và như hư không gồm nhiều sắc tướng tiêu tán cháy khô đã bị biến đổi nhưng cõi hư không chẳng có biến đổi hay là hư hại. Như thế nương vào Như Lai tịnh giớiChúng sanh giới, phát sinh nhiều pháp học xứ huỷ phạm của thân, ngữ, ý nghiệp được biết, nhưng Tịnh pháp giới chẳng có tướng biến đổi hay là hư hại.

Và như hư không có đất lớn, núi lớn, ánh sáng, lửa nước, quyến thuộc Đế thích… cho đến mặt trời mặt trăng nhiều loại khác nữa, nhưng tánh hư không chẳng có các tướng kia. Như thế nương vào Như lai tịnh giới mà có Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn, Giải thoát, Giải thoát tri kiến và các uẩn khác, nhưng tánh Tịnh giới chẳng có các tướng kia.

 Và như hư không gồm nhiều loại nhân duyên triển chuyển sinh khởi, Ba ngàn đại thiên, vô lượng thế giới vần xoay trong đó mà cõi hư không nào có dấy động. Như thế ở trong pháp giới Như lai thanh tịnh, đầy đủ vô lượng hình tướng chư Phật và Chúng hội vần xoay trong đó mà pháp giới vắng lặng nào có dấy động.

Còn nữa Diệu Sanh, Đại viên cảnh trí, như các hình ảnh hiện vào trong gương tròn đầy; như thế nương vào Như lai trí cảnh (gương trí của Phật) mà có cảnh thức (gương thức tâm) hiện ra các hình bóng. Đây dùng Viên cảnh làm thí dụ vậy. Phải biết Viên cảnh, Như lai trí cảnh hoàn toàn bình đẳng, cho nên Trí cảnh còn gọi là Viên cảnh trí.

Như gương tròn lớn có bóng hình người phước lạc, bóng gương tuyệt đẹp treo ở trên cao không có lung lay, có vô lượng (hình ảnh) chúng sanh qua lại, quan sát nơi bóng gương nầy thì có tốt có xấu… vì vậy mà muốn lưu lại bóng tốt và bỏ bóng xấu vậy.

Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh, vì muốn chúng sanh giữ tịnh bỏ nhiễm vậy.

Và như gương tròn trong suốt tuyệt đẹp, ánh sáng chiếu khắp trong sạch không dơ, như thế Như lai Đại viên cảnh trí, về mặt Phật trí thì đã hoàn hoàn thoát khỏi tất cả sự đau khổ của Phiền não chướngSở tri chướng, cực thiện trong suốt làm Y chỉ định, có sự nhiếp trì thanh tịnh không động, ánh sáng chiếu khắp, khiến các chúng sanh có được lợi lạc.

Và như gương tròn bản chất là tương duyên, có nhiều hình bóng tướng mạo sinh khởi; như thế Như lai Đại viên cảnh trí nương vào các duyên trong tất cả thời mà có nhiều trí ảnh tướng mạo sinh khởi, như trong gương tròn không chỉ có một mà là rất nhiều hình ảnh nhưng mà bản chất của gương tròn vốn không có các hình ảnh, và gương tròn này không động không tác.
Như thế với gương trí tuệ vằng vặc của Như lai, chẳng phải một nhưng lại có nhiều trí ảnh hiện ra, nhưng gương trí tuệ tròn đầy không có các trí ảnh, và gương trí này vốn không lay động.
Và như gương tròn cùng các hình ảnh, chẳng hợp chẳng ly, chẳng có tụ tập mà hiện các duyên kia vậy. Như thế Đại viên cảnh trí của Như Lai cùng các trí ảnh chẳng hợp chẳng lìa, không có tụ tập cũng chẳng tản mất.

Và như gương tròn trong sáng, mặt gương soi tất cả nơi, và các hình ảnh biến khởi theo duyên. Như thế gương trí Đại viên của Như Lai không lìa vô lượng duyên mà hành thiện pháp, vì các trí ảnh biến khởi đều nương duyên; nghĩa là có hình thái về các trí ảnh của Thanh văn thừa, hình thái trí ảnh của Độc giác thừa, hình thái trí ảnh Vô thượng Đại thừa bởi vì muốn giúp cho hàng Thanh văn thừa nương theo cỗ xe Thanh vănxuất ly, muốn giúp hàng Độc giác nương vào cỗ xe Độc giácxuất ly, và muốn giúp hàng Đại thừa nương nơi cỗ xe Vô thượng thừa mà vượt thoát vậy. Như gương vằng vặc có đủ các hình bóng, bao hàm các hình thù địa cầu, các núi lớn, cây to, nhà cửa cung điện quy mô mà kính tròn này không có phân biệt khi soi chiếu. Như thế trên Viên cảnh trí của Như lai từ cõi Cực hỉ địa đến cõi Phật địa, các hình ảnh này đều hiện trong gương trí, và tất cả pháp thế gianxuất thế gian, gương trí đều hiện đủ mà gương trí vằng vặc kia đâu có phân biệt.

Và như gương tròn không bị che khuấthình ảnh kia mới hiện. Gương trí tròn lớn của Như Lai cũng như thế, chẳng phải phân chia xấu tốt tà chánh, chướng ngại chúng sanh nhưng các trí ảnh nương đây mà hiện; nhưng gương trí kia cũng chẳng phải là vật dụng vậy.

 Và như gương tròn không chỗ che lấp nên các hình ảnh mới hiện. Như Lai Đai viên kính trí cũng lại như thế, trí ảnh hiện hữu chẳng có sự ưa ghét, mê mờ đối với chúng sanh, và gương trí kia cũng chẳng phải là vật dụng vậy.

Và như gương tròn chẳng phải cách ly hình ảnh mà hiện. Như Lai Đại viên kính trí cũng lại như thế, các trí ảnh hiện khởi hoàn toàn thanh tịnh với sự dung nạp pháp nghiệp, chúng sanh bất tín, nhưng gương trí kia không phải là vật dụng vậy.

Lại nữa Diệu Sanh, Bình đẳng tánh trí là do mười loại tướng viên mãn thành tựu: (1) Chứng đắc chư tướng tăng thượng hỉ ái (rõ thấu các pháp tăng trưởng tâm hỉ ái đối với chúng sinh) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (2) Chứng đắc nhất thiết lãnh thọ duyên khởi (thấu rõ tất cả sự lãnh hội duyên khởi) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (3) Chứng đắc viễn ly dị tướng phi tướng (thấu rõ và buông bỏ các tướng đối lập) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (4) Hoằng tế đại từ (tâm đại từ hoằng hóa) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (5) Vô đãi đại bi (tâm đại từ không phân biệt) nhờ thành tựu đầy đủ bình đẳng pháp tánh. (6) Tùy chư chúng sanh sở lạc thị hiện (thị hiện theo sự mong cầu của chúng sanh) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (7) Nhất thiết chúng sanh kính thụ sở thuyết (tất cả chúng sanh cung kính nghe pháp) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (8) Thế gian tịch tĩnh giai đồng nhất vị (thấy rõ tướng vắng lặng của thế gian không có sự sai biệt) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (9) Thế gian chư pháp khổ lạc nhất vị (thấy rõ pháp khổ vui của thế gian đều không sai khác) nhờ thành tựu đầy đủ Bình đẳng pháp tánh. (10) Tu thực vô lượng công đức cứu cánh (đạt được sự rốt ráo của vô lượng công đức) nhờ thành tựu đầy đủ bình đẳng pháp tánh vậy.

Lại nữa Diệu Sanh, Diệu quan sát trí ví như thế giới gìn giữ cõi giới chúng sanh, Diệu quan sát trí của Như Lai cũng lại như thế, nắm giữ tất cả pháp Tổng trì Tam ma địa, là diệu pháp Vô ngại biện thuyết của chư Phật.

Và như thế giới là các chúng sanh, sinh ra tất cả vô lượng nhân duyên tướng thức (tâm và vật), như thế Diệu quan sát trí của Như Lai hay phát sinh ra tất cả nhận thức, Diệu trí vô ngại, nhiều loại nhân duyên của tướng- thức.

Và như thế giới có các thứ xinh đẹp, các nơi trang nghiêm như vườn rừng ao hồ… cực kỳ đáng yêu, Diệu quan sát trí của Như Lai cũng như thế, gồm có các pháp trang nghiêm đáng quý như Ba la mật đa, Bồ đề phần pháp, Thập lực vô úy, Bất cộng Phật pháp cực kỳ đáng quý.

Và như thế giới bao gồm các châu, mặt trời mặt trăng, cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Tam thập tam, cõi trời Dạ ma, cõi trời Đâu suất đa, cõi trời Lạc biến hóa, cõi trời Tha hóa tự tại, cõi trời Phạm thân v.v… và nhiều cõi giới đẹp đẽ. Diệu quan sát trí của Như Lai cũng như vậy, gồm có nhân quả thịnh suy, thế gianxuất thế gian, cảnh giới viên chứng của hàng Thanh văn Độc giác, tất cả cảnh giới đều được quán sát đầy đủ.

Và như thế giới vì các chúng sanh mà có sự thọ dụng rộng lớn, như thế Diệu quan sát trí của Như Lai thị hiện tất cả chúng hội của chư Phật. Có mưa pháp lớn khiến cho chúng sanh nhận pháp vui lớn. Như trong thế giới có năm nẻo luân hồi, đó là cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, cõi súc sanh, cõi người, và cõi trời, như thế ở nơi Diệu quan sát trí của Như Lai, tất cả cảnh giới nhân quả năm đường khác nhau đều hiển hiện trong đó. Như trong thế giới có các cõi Dục, Sắc và Vô sắc, như thế ở nơi Quan sát trí của Như Lai, tất cả ba cõi nhân quả sai biệt đều hiển hiện đầy đủ. Như trong thế giới Tô mê lư… có Đại bảo sơn vương hiển hiện trong đó, như thế ở nơi quan sát trí của Như Laioai thần dẫn dắt của chư Phật và Bồ tát với giáo pháp thậm thâmquảng đại được tuyên bày. Như trong thế giới quảng đại thậm thâm không thể làm khuynh đảo được biển lớn. Như thế ở nơi Diệu quan sát trí của Như lai, tất cả thiên ma ngoại đạo dị luận cũng không thể nào khuynh đảo được pháp giới giáo pháp sâu thẳm kia.

Và như thế giới bao bọc bởi các núi Đại Tiểu Luân Sơn, Như Lai Diệu quan sát trí cũng như thế, không rời tất cả ngoại vi của tự tướngcộng tướng vậy.

Lại nữa Diệu Sanh, Thành sở tác trí giống như chúng sanh Cần lệ thân nghiệp, nghĩa là chúng sanh mong cầu thu hoạch nhiều lợi vụ và dốc sức đối với mọi việc. Như thế Thành sở tác trí của Như Lai là Cần thân hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai thị hiện nhiều loại công xảo để bẽ gãy tâm kiêu mạn của chúng sanh, xử dụng trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo thành tựu giải thoát.

Lại nữa chúng sanhThụ dụng thân nghiệp, cho nên chúng sanh Thụ dụng nhiều loại hình thù và cảnh giới sai khác, như thế Thành sở tác trí của Như Lai là Thụ thân hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai đi vào nhiều cảnh giới khác nhau của chúng sanh, thị hiện đồng loại nhưng ở địa vị tôn quí, do thị hiện đồng loại mà nhiếp phục được tất cả chúng sanh dị loại, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này mà đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.

Lại như chúng sanh Lãnh thọ thân nghiệp, do đây chúng sanh lãnh thọ hành động nghiệp quả của thiện ác. Như thế Thành sở tác trí của Như Lai là lãnh thân hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai thị hiện lãnh thọ, nhiều đời nhiều kiếp tu các hạnh khó, dùng phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo thành tựu giải thoát.

Lại như chúng sanh Khánh úy (luôn trụ) ngữ nghiệp, do đây chúng sanh triển chuyển đàm luận, xoay vần nơi trụ tướng này. Như thế Thành sở tác trí của Như Lai là Khánh ngữ hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai tùy theo mỗi pháp lạc mà trình bày văn nghĩa xảo diệu, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để giúp cho hàng chúng sanh tiểu trí vừa nghe thì phát khởi lòng tin, đưa các chúng sanh vào được Thánh giáoThành tựu giải thoát vậy.

Lại như chúng sanh ở nơi Phương tiện ngữ nghiệp, nghĩa là chúng sanh triển chuyển truyền đạt nhau, đặc trách của tác nghiệp là hủy ác tán thiện để cùng nhau sinh tồn. Như thế Thành sở tác trí của Như Laiphát khởi Phương tiện ngữ biến hoá nghiệp, nghĩa là Như Lai thành lập Chánh xứ học, đẩy lùi nghiệp phóng dật (buông lung, biếng nhác) ca ngợi hạnh tinh tấn, và còn kiến lập các pháp tín-hạnh khế lý khế cơ, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.

Lại như chúng sanh Biện dương ngữ nghiệp, nghĩa là chúng sanh triển chuyển khai thị, đề xướng các luận giải bất liễu nghĩa. Như thế Thành sở tác trí của Như Lai là Biện ngữ hoá nghiệp, nghĩa là Như Lai cắt đứt vô lượng nghi hoặc của chúng sanh, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát.

Lại như chúng sanh Quyết trạch ý nghiệp, nghĩa là chúng sanh tự quyết định chọn lựa những gì có thể làm và những gì không thể làm. Như thế Thành sở tác trí của Như LaiQuyết ý hóa nghiệp, nghĩa là Như lai chọn lựa bốn vạn tám nghìn tâm hành sai biệt của chúng sanh, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.

Lại như chúng sanh Tạo tác ý nghiệp, do đây chúng sanh gây tạo nhiều hành vi khởi nghiệp. Như thế Thành sở tác trí của Như Lai là Tạo ý hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai quán các hành vi tạo nghiệp của chúng sanh, có tạo tác và không tạo tác, hoặc được hoặc mất, có thủ có xả…dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để đối trị tạo tác của chúng sanh và đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát.

Lại như chúng sanh Phát khởi ý nghiệp, nghĩa là chúng sanh tạo ra nhiều nghiệp. Như thế Thành sở tác trí của Như LaiPhát ý hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai vì muốn tuyên thuyết pháp này để đối trị Phát khởi ý nghiệp, làm rõ sở lạc của pháp (Phát ý hoá nghiệp) bằng cú tự văn nghĩa, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát.

Lại như chúng sanh Thọ lãnh ý nghiệp, do đây chúng sanh thọ lãnh khổ vui. Thành sở tác trí của Như Lai là Thọ ý hóa nghiệp, nghĩa là Như Lai cân nhắc với sự quyết định đối với sự thắc mắc đặc để, ngài làm sự thọ ký riêng biệt, tùy theo người đáng thọ lãnh (tiếp nhận) đối với các nghĩa ở nơi quá khứ, hiện tại và tương lai, dùng trí lực phương tiện thiện xảo này để đưa chúng sanh vào được Thánh giáo Thành tựu giải thoát vậy.

Bấy giờ Đại bồ tát Diệu Sanh bạch với Đức Phật rằng, thưa Thế tôn, việc này chỉ riêng Như Lai ở nơi tịnh pháp giới (pháp giới thanh tịnh), có sự thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị, nhưng chư Bố tát có thể làm được như thế không?

Đức Phật bảo Bồ tát Diệu Sanh rằng, hàng Bồ tát cũng có sự thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị vậy.

Bồ tát Diệu Sanh lại bạch Phật rằng, thế nào là sự thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị của hàng Bồ tát?

Đức Phật bảo rằng đó là chư Bồ tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Bởi vì chư Bồ tát kia ở trong pháp vô sanh, khi đắc được Nhẫn Giải thì đối trị với nhị tưởng, nghĩa là thoát ly hai loại tưởng của tự và tha (mình và người) cho nên đạt được tâm bình đẳng; từ đây trở đi hai loại vọng tưởng dị và tha của các Bồ tát kia không còn khởi hiện nên có sự thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị vậy.

Bồ tát Diệu Sanh lại bạch Phật rằng, kính mong Như Lai nói rõ ví dụ để giúp cho hàng Bồ tát rõ được ý nghĩa cao sâu này để tùy nghi hóa duyên lưu truyền rộng rãi khiến cho các chúng sanh nghe được điều này liền liễu ngộ được Vô sanh pháp nhẫn.

Đức Phật bảo ngài Diệu Sanh, ví như chư thiên cõi trời Tam thập tam chưa vào được Tạp Lâm trọn không thể lãnh hội pháp sự hoặc lĩnh thọ vô ngã, ngã sởhòa hợp thọ dụng. Nếu họ vào được Tạp Lâm tức không còn tâm phân biệt tùy ý thọ dụng, do đây Tạp lâm có Như thị Đức có thể khiến cho chư thiên khi vào được chỗ rừng này rồi có quả báo hoặc về Sự hoặc về Thọ của thiên giới, vô sở tư duy, hòa hợp thọ dụng.

Như thế hàng Bồ tát nếu chưa chứng đắc Vô sanh Pháp Nhẫn trọn không thể đạt được tâm bình đẳng, xả bình đẳng và cùng với tất cả hàng Thanh văn Độc giác không có sai biệt.
Nếu có nhị tưởng, hành giả không thể trụ vào sự thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị. Nếu đã chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, thoát khỏi nhị tưởng cho nên đạt được tâm bình đẳng, cùng với hàng Thanh Văn Độc giác không khác. Bởi tâm bình đẳng mà có thể trụ ở tánh xả, thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị.

Lại nữa Diệu Sanh, thí như các dòng nước lớn nhỏ chưa vào biển lớn nên có chỗ y cứ khác biệt nhau, nước ở trong dòng có sự khác biệt, có lên có xuống, tùy theo ngạch nước mà tạo thành sự khác biệt nhau, nước là nơi y trì thấp của đời sống loài thủy tộc… nếu dòng nước nhập với biển lớn thì không còn sự khác biệt đối với sở y, nước không có sự sai biệt, nước không có hạn lượng, nước đồng tác nghiệp không có lên xuống, nước là nơi y trì rộng lớn của đời sống loài thủy tộc.

Hàng Bồ tát cũng như thế, nếu chưa chứng nhập biển lớn của Như lai Thanh tịnh pháp giới thì từng chỗ Sở y đều có các Trí tăng giảm như có Thiểu trí và Dị trí, tùy theo Trí nghiệp kia mà hành vi tạo tác đều sai khác nhau. Một số chúng sanh nương nơi các trí làm chỗ y chỉthành tựu căn lành; nếu đã vào được biển lớn Thanh tịnh pháp giới của Như Lai thì chỗ sở y không có khác nhau và trí (chứng) kia cũng chẳng sai biệt. Trí (chứng) không có hạn lượng không có tăng giảm, thọ dụng hòa hợp, sự-trí nhất vị, nó là chỗ y chỉ của sự thành tựu thiện căn của vô lượng chúng sanh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn mới nói kệ rằng:

Tất cả pháp chơn như
Nhị chướng- thanh tịnh tướng
Pháp trí làm nhân duyên
Tướng Tự tại Vô tận
Trùm khắp trí Chơn như
Tu tập đạt rốt ráo
Các quả vị bất tận
An lập ở hai pháp
Thân ngữ và tâm hóa
Thiện hóa đường tu tập
Định và Tổng trì môn
Hai thành tựu vô biên
Tự tánh pháp-thọ dụng
Biến hóa sai khác nhau
Tịnh pháp giới như thế
Là điều chư Phật thuyết.

Lúc Đức Thế Tôn nói kinh này rồi, Đại Bồ tát Diệu Sanh cùng chư Bồ tát và các đại chúng Thanh văn, Thế gian, Trời, Người, A Tu La v.v… tất cả nghe lời Phật nói đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28244)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29379)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33280)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21764)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30648)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31259)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37150)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32305)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27124)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20614)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22246)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23985)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22865)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23204)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30410)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30088)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23126)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22321)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21783)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28220)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19254)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20151)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30902)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41506)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32718)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19118)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24965)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23682)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25315)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27767)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24997)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23823)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58688)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23204)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20888)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28155)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28913)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24596)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21426)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23844)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28608)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29404)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17646)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31014)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25331)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18955)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20133)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23945)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20155)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24822)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19399)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22568)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61816)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31134)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22113)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 19698)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant