HỌC PHẬT HÀNH NGHI (PHÉP TẮC CHO NGƯỜI HỌC PHẬT) Thích Minh Thông Lược dịch và Phụ chú
Bài 3 - Cung kính Tăng
Lời
thưa: nói rằng trọng Pháp, tất trước phải biết trọngngười nói Pháp vậy!
Phàm sa-môn, cư
sĩ khi thấy các bậc trưởng-lão, pháp-sư, các vị đại-đức đều nên thân ngay, mình
thẳng đứng cho nghiêm chỉnh, chẳng được ngồi nguyên vị mà không đứng dậy. Trừ
khi tụng kinh, khi bệnh, khi cắt tóc, khi thân đang bận rộn với công việc không
thể đứng dậy. Hàng hậu học chẳng được nói lỗi của chư trưởng lão, pháp-sư, chư
đại đức. Chẳng được nói trổng danh xưng của các bậc lớn, nên xưng “trưởng lão,
pháp sư, đại sư” chi chi đó. Còn khi đối diện chuyện trò thì chẳng được đề xuấtdanh tự, còn như đơn độc xưng hai chữ trưởng lão, hoặc pháp sư, hoặc hòa-thượng
là cách thông xưng của hàng học nhân.
Phàm thư từ qua lại cũng phải như vậy,
chẳng được xưng vãn bối, cùng tôi, ta, kẻ hèn này nọ v.v...
Các
bậc tôn Trưởng lão, pháp sư nên xưng thượng tọa, trượng-hạ, chẳng được xưng
phương trượng.
Còn đối với chư Ni nên
xưng đại sĩ, ni trưởng, sư bà, ni sư, sư cô v.v... Còn khi thấy các vị tăng lữbình thường thì nên xưng Thầy chi chi đó, chẳng được gọi thẳng tên họ. Nếu
thưa hỏi tôn hiệu nên hỏi bồ-tát tôn xưng thượng... hạ..., chẳng được nói pháp
danh. Còn khi hỏi pháp danh tất là hàng thượng tọa hỏi hàng hậu học vậy. Mà tự
mình thì phải xưng hậu học, chẳng được xưng bất huệ (không trí tuệ), bất tài,
bất nịnh (vô năng), v.v...
Lời phụ: phần trên thuộc vềgiáo môn,
thông dụng khôngchỉ dành riêng cho hàng học Phật. Ở đời chúng ta đối với
các bực trên trước mỗi khi thấy họ đều phải đứng đậy tiếp rước, đâu thể ngồi
trơ ra đó, trừ những lúc đang công việc dở dang, hoặc bệnh nặng không thể gượng
dậy nổi. Còn chuyện lỗi phải thị phi của người lớn, thông thường chúng ta là
hàng con cháu đâu đủ tư cách tùy tiện phán xét. Còn tên tuổi danh họ đều là những
việc hay cấm kỵ của người xưa, nên người ta thường gọi nhau theo vị thứ mà chẳng
gọi thẳng tên trừ phi là quen thân hay những người trong gia đình.
Phàm sa-di, cư sĩ chẳng được lén nghe
đại sa-môn thuyết giới, lại cũng chẳng được lén nghe tỳ-kheo tụng Giới Kinh.
Lời phụ: phần này thuộc vềkhuôn phép nghi
thức riêngdành cho người xuất-gia nên hàng cư-sĩ không được đến gần
nghe trộm. Bởi nhiều nguyên do nhưng cũng không ngoài hai nguyên nhân chính, thứ
nhất là khiến kia sanh lòng khát ngưỡng muốn cầu giới pháp để tu học, thứ nữa là
giúp kia tránh tội rêu rao nói lỗi của người khác. Chẳngđược nói việc lỗi ở trong tăng-chúng:
phàm là người chưa phải là bực thánh-triết, mấy ai khỏi lỗi. Ta không có con mắt-huệ
đâu thể xét biết kia phải quấy thế nào, đức độ chúng-tăng lớn như biển, Phật
còn khen ngợi, nếu ta chỉ trích, tự mắc khổ báo lớn vậy.
Phàm vào
Tăng-phòng, không luận là phòng nào, không được khinh suất xông bừa vào, nên
trước khảy móng tay lên cửa 3 tiếng, bên trong đáp ứng mới được vào, không có
tiếng đáp thì nên đi. Vào trong rồi, trước nên hướng đến Phật-tượng xá lễ, thứ
đến hướng về chư đại-đức đang xem kinh, đối trước bàn xá chào thưa hỏi, sau mới
hướng về các vị đại-đức chắp tay xá chào thưa hỏi.
Lời phụ: Tăng phòng
nơi dành riêng cho chúng tăng thanhtịnh tu hành nên không thể tùy tiện
xông bừa vào. Muốn vào tất phải khiến kia biết cho phép mới được vào. Chào hỏi
phải biết thứ tự trên dưới trước sau.
Phàm khi thấy
chư đại-đức, trưởng lão, pháp sư cũng như thấy Phật, quy tắclễ nghi như phần
trước chỗ nói. Còn khi thấy hàng chúng tăng tầm thường lại cũng phải xem như
thấy Bồ-tát vậy, chẳng được coi khinh. Dù chẳng phải bậc Tăng tốt cũng nên cung
kính, phải lấy theo hình tướng của sa-môn để tôn trọng vậy. Huống chi có nh ững
biểu hiện mà với con mắt thịt của chúng ta không thể thấy hết được. Vì vậy mà
Bồ-tát Thường Bất Khinh khi thấy bất cứ người nào đều nói rằng: “các ngài đều
sẽ làm Phật, tôi chẳng dám khinh các ngài.” Như vậy có thể biết. Hàng cư sĩ mỗi khi thấy Sa-di, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đi qua thì nên đứng dậy, còn khi thấy
những vị đồng bực với nhau thì chỉ cần ngồi ngay cũng được rồi.
Lời phụ: phải luôn
ghi nhớcâu nói của Bồ-tát Thường BấtKhinh: “tôi chẳng dám khinh
quý ngài, quý ngài đều sẽlàm Phật.” Đức
Phật cũng thường khen ngợi đức lớn của chúng Tăng không thể nghĩ bàn. Ví như
Kinh Vu Lan chúng ta thấy được: Mục-kiền-liên tôn giả muốn cứu mẹ. Phật dạy phải
cúng dườngchúng Tăng, thế mới biết đức độ của chúng Tăng rất lớn, huống chi
trong đó xen lẫn những đại bồ-tát, thanh văncho đến chư cổ Phật cũng tái lai
hiện thân giữa hàng chúng Tăng làm mô phạm mà mắt thườngchúng ta không thấy biết
hết được.
Phàm muốn lễ bái
chư Đại-đức thì duy chỉ khi những vị ấy đang chánh tọa, đang đứng thì có thể lễ
bái, còn những khi chư đại-đức đang tọa-thiền, kinh hành, dùng cơm, cạo tóc, tắm rửa, ngủ nghỉ, v.v... thì chẳng nên lễ bái. Nếu phòng đóng cửa thì không nên
ở ngoài cửa làm lễ, muốn vào cửa làm lễ nên khảy móng tay lên cửa 3 lần, thầy
không trả lời thì nên đi. Phàm thưa hỏi Phật-pháp thì phải nên chỉnh đốny phụclễ bái, tối thiểu phải đứng ngay ngắn cúi đầu chắp tay thưa hỏi, nếu cho phép
ngồi thì mới được ngồi, cần phải lắng lòng khéo nghe, tư duythâm nhập. Khi chư
đại-đức nói chưa xong chẳng được gấp nói chen vào thưa hỏi. Phàm Tăng-ni có lỗi
lầm gì thời do đại sa-môn đến thời Tự-tứ sẽ đề cập tới, hàng cư-sĩ chẳng được nói lên
lỗi lầm của các vị sa-môn, đối với hàng hậu học cũng lại như vậy.
Lời phụ: muốn lễlạy cũng phải biết thời, biết chỗ, khôngthể tùy tiện lễ bái. Còn
thưa hỏi cũng phải từ tốn, khéo nghe mà suy nghĩ. Lỗi lầm của chúng Tăng có
chúng Tăng xử lý, chẳng việc chúng ta thì chớ có xen vào. Xen vào nói lỗi của
người khác tội thật không nhỏ. Trong Kinh Phạm Võng Bồ-tát Giới: nói lỗi lầm của
người khác là một trong mười tội nặng, đâu thể không răn dè.
Phàm ở giữa
đường gặp các vị đại-đức, nên mau đứng nhường sang một bên chờ chư đại đức đi
qua rồi mới đi, chẳng được kia đây đắp đổi nhau mà đi. Còn những lúc cùng đi
chung, phải nên nhường chư đại đứcđi trước, nên làm thay chư đại đức mang
nách đồ vật. Phàm lúc ngồi phải nên nhường chư đại-đức ngồi trên trước, ngồi
trên sàng chiếu cũng lại như vậy. Phàm th ấy chư đại-đức chẳng được hai tay
chống hông, chẳng được lay động cánh tay cùng lắc lư thân mình, chẳng được ngồi
xổm, chẳng được vừa đi vừa nhảy, chẳng được đi mau trừ khi có việc gấp. Chẳng
được rút cổ co đầu trừ khi có bệnh. Chẳng được cố nhìn hai bên trái phải, chẳng
được đứng chỗ cao, chẳng được cười giỡn. Những việc còn lại đều có nói rõ ở
trong luật, do vì văn nhiều không chép.
Lời phụ: trong sinh
hoạthằng ngày phải nên hết lòng kínhquý giúp đỡ chúng Tăng, chẳng được
biểu hiện những hình tướnglễ nghitrái phép, chẳng được cười giỡn nhái giọng nói,
tả hình dáng cùng nhạo tướng đi cung cách của chúng Tăng. Chi tiết thì rất nhiều
chỉ đơn cử những thứ chính yếu, các phần chi li thì cứ suy theo đây có thể biết
vậy.
Lời thưa: Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ, nghĩ mà tu, chẳng đặng chuyên nhớ lời hay, để giúp câu văn lý luận. Chuyên nhớ lời hay, mà không thực hành, thời không ích chi cho đạo. Như người nói ăn mà không ăn, thì đến bao giờ no bụng, cũng như đếm ngọc báu của người, rốt cuộc mình không có một đồng nhỏ. Bằng cậy tài nghề, khoe khoang chỗ tri kiến,
không cần tỏ lý, thêm lớn cây cờ ngã mạn, trở thành thuốc độc. Chẳng đặng dùng miệng thổi bụi trên kinh, có hai lỗi: (1) hơi hôi trong miệng ;
(2) mất tâm cung kỉnh ; cần phải lấy vật sạch lau đó. Văn Thù Vấn Kinh nói: sắm sửa đồ cúng dường mà lấy miệng thổi sạch bụi trên đồ cúng đó. Hơi hôi miệng bay ra làm ô uế đồ cúng vậy. Phàm sa-môn, cư sĩ, khi đọc kinh luật của Phật nên đốt hương chánh tọa, thấy kinh như thấy Phật. Chẳng được nương dựa, chẳng được dùng tay không sạch mà cầm nắm kinh tượng. Muốn đọc kinh, trước hết nên ngồi tĩnh tọa một thời gian ngắn, niệm thầm bài kệ rằng: Vô thượngthậm thâmvi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như-lai chân thật nghĩa.
Tạm dịch: Vòi vọi không trên pháp thẩm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện giải Như-lai nghĩa nhiệm mầu.
Niệm xong rồi, chắp tay xá rồi mới mở kinh ra. Đọc kinh, chữ chữ cần phải lý hội nghĩa giải, cùng với tâm tương ưng, chẳng được đọc lướt qua loa.
Lời phụ: Thân người khó được, Phật-pháp khó nghe. Nên biết đời nay được thân người là do nhơn lành của đời trước biết tu dưỡng, biết giữ gìn 5 giới 10 điều thiện. Nay gặp được Phật-pháp, thì phải biết hết lòng trân quý kính trọng duyên lành này. Chúng ta sanh ra đời này tuy không gặp Phật tại thế, nhưng còn gặp được kinh điểnchánh pháp của ngài để lại, nên chúng ta kính kinh như kính Phật. Khi đọc kinh Phật, trước phải lắng
lòng khiến tâm bình khí hòa, để tinh thần định trụ trong lời Phật dạy thì mới hay thâm ngộ được Phật lý, chẳng nên đọc qua loa để lướt qua đi những thâm ý sâu xa trong lời Phật nói. Phàm đọc kinh, nên đắp y (phương bào) hoặc mặc áo tràng (áo ngoài). Trên bàn trừ kinh điển cùng với lư hương đèn ra, chẳng được để thêm các thứ tạp vật như trà quả, các thứ vật khác, còn bút viết, nghiên
mực nên an trí nơi chỗ khác. Trên kinh có bụi, nên dùng giấy sạch mà lau, chẳng được dùng miệng mà thổi. Đọc xong hoặc ngơi nghỉ, cần phải đem kinh để lại trên giá kinh và gấp lại cho ngay ngắn. Đọc đến chỗ nào nên dùng chỉ vàng mà làm giấu ngăn ở trong kinh, trên đầu để lộ ra một chút, chẳng được bẻ gấp mép trang kinh làm giấu, chẳng được làm nhàu nát. Đọc kinh đến nửa chừng nếu tâm sanh tạp niệm, thì nên gấp kinh lại,
đến khi tạp niệm tan rồi mới lại mở ra đọc tiếp.
Nếu có khách tới, hoặc trưởng bối, hay đồng học đến, đều nên gấp kinh sách lại rồi mới nên tiếp chuyện. Có kinh Phật ở trên bàn chẳng nên bàn luận chuyện thế gian tạp thoại, chẳng được cười và nói lớn tiếng, chẳng được khạc nhổ. Nếu phát cơn ho thì phải dùng tay áo che miệng. Nếu đọc kinh có được chút tâm ý lĩnh hội, thì chờ sau khi đọc kinh xong, lấy giấy bút riêng để ghi chú bên ngoài, không được ghi chú ngay trên đầu sách. Nếu viết Kinh luật, tất phải viết chữ đứng ngay ngắn, bút tích mới
sạch, chẳng được tùy ý thảo thư, lại chẳng được trước sau thêm vào nhiều lời hư nguỵ.
Lời phụ: Khi đọc kinh tức là tiếp xúc với lời Phật dạy, quán tưởng như Phật đang tại tiền giảng giải cho mình vậy, nên phải dọn lòng, dọn mình cho trang nghiêm sạch sẽ. Chẳng nên vừa học đạo vừa đàm luậnthế gian sự, lại chẳng nên loạn tưởng. Đối kinh sách phải biết trân quý mà chẳng cẩu thả làm hư rách kinh điển. Muốn ghi chép những tâm đắc gì thì phải dùng giấy vở riêng khác, chẳng được viết loạn trên kinh. Phàm các kinh sách, phải nên như phápcung phụng, Kinh Phạm Võng
nói: Nếu là Phật-tử phải thường nhất tâmthọ trìđọc tụng kinh luật đại
thừa, dùng giấy, vải, hàng lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc cùng hương hoavô giá và tất cả châu báu làm hộp rương, đựng những quyển kinh luật. Nếu khôngy theo pháp mà cúng
dường kinh luật, Phật-tử nầy phạm “khinh cấu tội.” Nếu kinh sách hư rách, nên mau tu sửa lại, phải luôn giữ gìn như mới vậy.
Phàm cầm nắm kinh tượng phải nên dùng hai tay bưng lên ngang ngực, chẳng
được một tay nách mang. Tay mình cầm kinh tượng không được hướng người khác lễ lạy, lại chẳng được một tay xá chào cùng cúi mình chắp tay, chỉ nên dùng hai tay nâng kinh tượng lên ngang với mi mắt thời đủ lễ vậy.
Phàm kính pháp, không chỉ riêng kính trọngkinh điển, mà phải đối với y bát, tích trượng, v.v... cũng lại như vậy. Còn nhiều thứ vô hình vô tướngđặc biệt lại càng nhiều hơn, không thể liệt kê hết, nên theo đây suy diễn ra tự biết vậy.
Lời phụ: Pháp là con đường đưa đến sự giác ngộ, giải thoáttâm linh. Lời
Phật dạy mỗi mỗi đều lưu xuất từ tự tánh mà tất cả ngôn giáo của thế gian không gì sánh bằng, bởi sách thế gian đều rơi vào tình thức, là sự thấy nghe hiểu biết bằng vào sự nhận thức của bộ não, sự vọng động của niệm lự. Vì vậy đối với pháp-bảo, chúng ta phải hết lòng kính tin mới mong đạt được sự lợi íchvô cùng tận của nó. Thêm vào đó, trong kinh giáo thường nói. Giác ngộ chẳng phải chỉ có một con đường mà có cả thảy 8
vạn 4 ngàn pháp môn. Cho nên đối với các pháp khí trong nhà Phật đồng đẳng cung kính vậy. Thường thấy kinh sámứng phólưu thông ngày nay đa phần thuộc về
ngụy soạn, tuy có một hai phần là chánh kinh, lại chỉ là những phần vụn
vặt ô uế chẳng chịu được. Lại nữa, những hạng tân học gia gần đây thấy kinh uyên bác, cũng muốn lấy mà xem coi. Nhưng lúc xem coi, nếu chẳng phải nằm ngửa cũng là tựa lưng ngồi nghiêng, không thì uốn mình cong như
ống đồng, đều là những hiện tượng chẳng phải chỗ nên làm của người học Phật, càng không thể xưng là cư-sĩ, sa-môn vậy. Hy vọng các vị có cùng chí hướng nên nỗ lựchết lòng khuyên bảo nhau để mong tránh khỏiác báo.
Lời phụ: Kinh sámứng phóđạo tràng là thuộc về những pháp sự cúng tế lễ
nghi. Bởi cách thánh hiền càng xa, Phật pháp lan rộng trong nhân gian nên xen lẫn những tập quán, phong tục của mỗi địa phương cùng niềm tin của những giáo phái khác. Và vì muốn phù hợp với những giòng chảy đó nên
trong kinh sámứng phó mới soạn thêm nhiều phần đi ra ngoài chánh văn của lời Phật dạy. Đặc biệt ngày nay, do sự văn minh của vật chất tăng vọt, việc in ấn kinh sách càng dễ dàng nên kinh sách số lượng phát ra rộng rãi và dễ dàng có được, chẳng phải như xưa phải chép tay, phải học thuộc lòng. Cho nên nhiều người đối kinh giáo lòng kính trọng giảm đi rất nhiều. Những hàng thức giả thấy kinh điểnPhật giáo có chỗ xuất chúng nên cũng muốn tìm hiểu để tăng phần tri thức cho mình, thích lợi khẩu huyền đàm nên chỉ muốn tìm chương trích cú, dẫn giải những phần thích ý trong kinh mà đối kinh giáo lại chẳng thật lòng tôn trọng, nên có những hành vi, xu hướng chẳng đẹp mắt. Hy vọng người thật lòng học Phật nên lưu tâm cùng nhắc nhở nhau trên bước đường tu tập đạo giải thoát.
Lời thưa: nói rằng trọng Pháp, tất trước phải biết trọng người nói Pháp vậy! Phàm sa-môn, cư sĩ khi thấy các bậc trưởng-lão, pháp-sư, các vị đại-đức đều nên thân ngay, mình thẳng đứng cho nghiêm chỉnh, chẳng được ngồi nguyên vị mà không đứng dậy. Trừ khi tụng kinh, khi bệnh, khi cắt tóc, khi thân đang bận rộn với công việc không thể đứng dậy. Hàng hậu học chẳng được nói lỗi của chư trưởng lão, pháp-sư, chư đại đức. Chẳng được nói trổng danh xưng của các bậc lớn, nên xưng “trưởng lão, pháp sư,
đại sư” chi chi đó. Còn khi đối diện chuyện trò thì chẳng được đề xuấtdanh tự, còn như đơn độc xưng hai chữ trưởng lão, hoặc pháp sư, hoặc hòa-thượng là cách thông xưng của hàng học nhân.
Phàm thư từ qua lại cũng phải như vậy, chẳng được xưng vãn bối, cùng tôi, ta, kẻ hèn này nọ v.v... Các bậc tôn Trưởng lão, pháp sư nên xưng thượng tọa, trượng-hạ, chẳng được xưng phương trượng. Còn đối với chư Ni
nên xưng đại sĩ, ni trưởng, sư bà, ni sư, sư cô v.v... Còn khi thấy các
vị tăng lữbình thường thì nên xưng Thầy chi chi đó, chẳng được gọi thẳng tên họ. Nếu thưa hỏi tôn hiệu nên hỏi bồ-tát tôn xưng thượng... hạ..., chẳng được nói pháp danh. Còn khi hỏi pháp danh tất là hàng thượng tọa hỏi hàng hậu học vậy. Mà tự mình thì phải xưng hậu học, chẳng
được xưng bất huệ (không trí tuệ), bất tài, bất nịnh (vô năng), v.v...
Lời phụ: phần trên thuộc về giáo môn, thông dụng không chỉ dành riêng cho hàng học Phật. Ở đời chúng ta đối với các bực trên trước mỗi khi thấy họ đều phải đứng đậy tiếp rước, đâu thể ngồi trơ ra đó, trừ những lúc đang công việc dở dang, hoặc bệnh nặng không thể gượng dậy nổi. Còn chuyện lỗi phải thị phi của người lớn, thông thường chúng ta là hàng con
cháu đâu đủ tư cách tùy tiện phán xét. Còn tên tuổi danh họ đều là những việc hay cấm kỵ của người xưa, nên người ta thường gọi nhau theo vị thứ mà chẳng gọi thẳng tên trừ phi là quen thân hay những người trong
gia đình. Phàm sa-di, cư sĩ chẳng được lén nghe đại sa-môn thuyết giới, lại cũng chẳng được lén nghe tỳ-kheo tụng Giới Kinh.
Lời phụ: phần này thuộc về khuôn phép nghi thức riêng dành cho người xuất-gia nên hàng cư-sĩ không được đến gần nghe trộm. Bởi nhiều nguyên do nhưng cũng không ngoài hai nguyên nhân chính, thứ nhất là khiến kia sanh lòng khát ngưỡng muốn cầu giới pháp để tu học, thứ nữa là giúp kia tránh tội rêu rao nói lỗi của người khác. Chẳng được nói việc lỗi ở trong tăng-chúng: phàm là người chưa phải là bực thánh-triết, mấy ai khỏi lỗi. Ta không có con mắt-huệ đâu thể xét biết kia phải quấy thế nào, đức độ chúng-tăng lớn như biển, Phật còn khen ngợi, nếu ta chỉ trích, tự mắc khổ báo lớn vậy. Phàm vào Tăng-phòng, không luận là phòng nào, không được khinh suất xông bừa vào, nên trước khảy móng tay lên cửa 3 tiếng, bên trong đáp ứng mới được vào, không có tiếng đáp thì nên đi. Vào trong rồi, trước nên hướng đến Phật-tượng xá lễ, thứ đến hướng về chư đại-đức đang xem kinh, đối trước bàn xá chào thưa hỏi, sau mới hướng về các vị đại-đức chắp tay xá chào thưa hỏi.
Lời phụ: Tăng phòng nơi dành riêng cho chúng tăngthanh tịnhtu hành nên
không thể tùy tiện xông bừa vào. Muốn vào tất phải khiến kia biết cho phép mới được vào. Chào hỏi phải biết thứ tự trên dưới trước sau. Phàm khi thấy chư đại-đức, trưởng lão, pháp sư cũng như thấy Phật, quy tắclễ nghi như phần trước chỗ nói. Còn khi thấy hàng chúng tăng tầm thường lại cũng phải xem như thấy Bồ-tát vậy, chẳng được coi khinh. Dù chẳng phải bậc Tăng tốt cũng nên cung kính, phải lấy theo hình
tướng của sa-môn để tôn trọng vậy. Huống chi có những biểu hiện mà với con mắt thịt của chúng ta không thể thấy hết được. Vì vậy mà Bồ-tát Thường Bất Khinh khi thấy bất cứ người nào đều nói rằng: “các ngài đều sẽ làm Phật, tôi chẳng dám khinh các ngài.” Như vậy có thể biết. Hàng cư
sĩ mỗi khi thấy Sa-di, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đi qua thì nên đứng dậy, còn
khi thấy những vị đồng bực với nhau thì chỉ cần ngồi ngay cũng được rồi.
Lời phụ: phải luôn ghi nhớ câu nói của Bồ-tát Thường Bất Khinh: “tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ làm Phật.” Đức Phật cũng thường khen ngợi đức lớn của chúng Tăng không thể nghĩ bàn. Ví như Kinh Vu Lan chúng ta thấy được: Mục-kiền-liên tôn giả muốn cứu mẹ. Phật dạy phải cúng dườngchúng Tăng, thế mới biết đức độ của chúng Tăng rất lớn, huống chi trong đó xen lẫn những đại bồ-tát, thanh văncho đến chư cổ Phật cũng tái lai hiện thân giữa hàng chúng Tăng làm mô phạm mà mắt thườngchúng ta không thấy biết hết được. Phàm muốn lễ bái chư Đại-đức thì duy chỉ khi những vị ấy đang chánh tọa, đang đứng thì có thể lễ bái, còn những khi chư đại-đức đang tọa-thiền, kinh hành, dùng cơm, cạo tóc, tắm rửa, ngủ nghỉ, v.v... thì chẳng nên lễ bái. Nếu phòng đóng cửa thì không nên ở ngoài cửa làm lễ, muốn vào cửa làm lễ nên khảy móng tay lên cửa 3 lần, thầy không trả lời thì nên đi. Phàm thưa hỏi Phật-pháp thì phải nên chỉnh đốny phụclễ bái, tối thiểu phải đứng ngay ngắn cúi đầu chắp tay thưa hỏi, nếu cho phép ngồi thì mới được ngồi, cần phải lắng lòng khéo nghe, tư duythâm nhập. Khi chư đại-đức nói chưa xong chẳng được gấp nói chen vào thưa hỏi. Phàm Tăng-ni có lỗi lầm gì thời do đại sa-môn đến thời Tự-tứ sẽ đề cập tới, hàng cư-sĩ chẳng được nói lên lỗi lầm của các vị sa-môn, đối với hàng hậu học cũng lại như vậy.
Lời phụ: muốn lễ lạy cũng phải biết thời, biết chỗ, không thể tùy tiện lễ bái. Còn thưa hỏi cũng phải từ tốn, khéo nghe mà suy nghĩ. Lỗi lầm của chúng Tăng có chúng Tăng xử lý, chẳng việc chúng ta thì chớ có xen vào. Xen vào nói lỗi của người khác tội thật không nhỏ. Trong Kinh Phạm Võng Bồ-tát Giới: nói lỗi lầm của người khác là một trong mười tội nặng,
đâu thể không răn dè. Phàm ở giữa đường gặp các vị đại-đức, nên mau đứng nhường sang một bên chờ chư đại đức đi qua rồi mới đi, chẳng được kia đây đắp đổi nhau mà đi. Còn những lúc cùng đi chung, phải nên nhường chư đại đứcđi trước, nên làm thay chư đại đức mang nách đồ vật. Phàm lúc ngồi phải nên
nhường chư đại-đức ngồi trên trước, ngồi trên sàng chiếu cũng lại như vậy. Phàm thấy chư đại-đức chẳng được hai tay chống hông, chẳng được lay
động cánh tay cùng lắc lư thân mình, chẳng được ngồi xổm, chẳng được vừa đi vừa nhảy, chẳng được đi mau trừ khi có việc gấp. Chẳng được rút cổ co đầu trừ khi có bệnh. Chẳng được cố nhìn hai bên trái phải, chẳng được đứng chỗ cao, chẳng được cười giỡn. Những việc còn lại đều có nói rõ ở trong luật, do vì văn nhiều không chép.
Lời phụ: trong sinh hoạthằng ngày phải nên hết lòng kính quý giúp đỡ chúng Tăng, chẳng được biểu hiện những hình tướnglễ nghitrái phép, chẳng được cười giỡn nhái giọng nói, tả hình dáng cùng nhạo tướng đi cung cách của chúng Tăng. Chi tiết thì rất nhiều chỉ đơn cử những thứ chính yếu, các phần chi li thì cứ suy theo đây có thể biết vậy.
Nếu chúng ta thẩm tra thế giớitinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực.
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứuhọc hỏi thì kiến thức và tư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sống là thời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sốngtiếp theo.
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
Thiện tri thức! Tâm lượngquảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích NữTrí Hải dịch
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
Nói khái quát, Phật giáoquan niệmthực tại không ngừng biến chuyển và bác bỏ khái niệm bền vữnglâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệtliên tục, tất cả là lưu chú...
Với hy vọng và một cảm giáchạnh phúc, thân thểchúng tacảm thấyan lạc. Vậy nên hy vọng và hạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnhđặc biệt bạn cần phảithực hành hạnh Sodpa.
Các Tỷ kheothực hành phápan cư, là biểu hiện mẫu mực đời sốngly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
Sau khi Đức Phậtnhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết địnhtrùng tụng trong dịp an cư...
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâmtu tậpcho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loạicung kínhcúng dường...
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinhtrọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướngvũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vậttùy ýtự tại.
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đếnchính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tậnbiện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theocon đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
Bổn phận của người Xuất Gia là tu đạo, truyền đạo và duy trìPhật giáo, cho đếnthực hiệntinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hànhthiền tứ đại một cách có hệ thống...
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạotâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vithân thể, lời nói và tư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếmsự giải thoát và hạnh phúcvô songtối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.