Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

07 Tháng Ba 201507:43(Xem: 11733)
Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

PHẬT THUYẾT KINH THẬM THÂM ĐẠI HỒI HƯỚNG


Việt dịch:
Thích Nữ Thuần Hạnh


Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi HướngTôi nghe như vầy ! Một thời đức Phật cùng với tám ngàn chúng đại Tỳ kheo trú ở vườn Cấp Cô Độc, Kỳ Thọ, nước Xá Vệ. Bấy giờ, Thế Tônđại chúng xung quanh trước sau mà thuyết pháp. Trong hội chúng đó có một vị Bồ tát, hiệu là Minh Thiên, rời chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn, vì con phân biệt giảng thuyết.

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Thiện nam tử ! Muốn hỏi điều gì cứ hỏi, chớ đừng phân vân. Như Lai tùy theo lời hỏi mà giải đáp.

Bồ tát Minh Thiên liền bạch Phật :

-Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Lành thay ! Lành thay ! Minh Thiên ! Có thể hỏi Như Lai nghĩa này. Thầy đã từng ở trong thời quá khứ, chỗ vô lượng chư Phật gieo trồng công đức cúng dường chư Phật, thân cận thiện tri thức, có thể làm cho chúng sanh được phước báo an lạc, nên mới hỏi nghĩa sâu xa này. Lắng nghe ! Lắng nghe, khéo suy nghĩ !

Bồ tát Minh Thiên bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con xin thọ giáo.

Phật dạy Minh Thiên :

- Chư Đại Bồ tát, ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, tu thân hành từ bi, tu khẩu hành từ bi, tu tâm hành từ bi, chuyên tâm niệm Phật, hành trì công đức. Lại nữa Minh Thiên ! Đại Bồ tát phải nên đến điện thờ Thế Tôn Như Lai lễ bái cúng dường, gối phải sát đất chắp tay nhiễu quanh bên phải, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, đủ các loại âm nhạc cung kính tôn trọng. Dùng các loại âm thanh hòa nhã ca ngợi nghĩa cú sâu xa, khen ngợi công đức Phật, hoan hỷ tán thán.

Phật dạy Minh Thiên :

- Vì sao Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai tu tập thân hành từ, tu khẩu hành từ, tu tâm hành từ, nhớ nghĩ công đức Phật? Thiện nam tử ! Đại Bồ tát nên nhớ nghĩ Như Lai là bậc kiên cố, bậc Vô Thượng, bậc Tối Thắng, là chúa sư tử dõng mãnh vô tối, tự độ độ tha tự an, an cho người, tự diệt, diệt cho người, thuyết pháp chơn đế, chúng sanh an lập, tâm không dối trá, đầy đủ tịnh giới, sức lực vô úy, biện tài, vĩnh viễn trừ các tập chướng. Tự tại đối với pháp, bình đẳng với mọi người. Chuyên tâm nhớ nghĩ công đức Phật như vậy rồi, gối phải sát đất, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường. Đây là Bồ tát tu tập thân hành từ.

Dùng âm thanh hòa nhã ca ngợi về cú nghĩa sâu xa thán tán công đức Như Lai vô lượng. Đây là Bồ tát tu tập khẩu hành từ. Nhơn nơi thiện căn của thân miệng nhớ nghĩ công đức Phật chí thành cung kính. Đây là tu tập tâm hành từ. Minh Thiên ! Đây là Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu tập thân khẩu ý từ, thực hành chánh niệm.

Phật lại dạy Minh Thiên :

- Lại nữa, Đại Bồ tát ở chỗ các chúng sanh đời quá khứ, hiện tại, vị lai cũng nên tu tập thân hành từ, tu tập khẩu hành từ, tu ý hành từ, nhớ nghĩ các chúng sanh. Minh Thiên ! Vì các Đại Bồ tát ở chỗ chúng sanh trong ba đời tu tập thân, khẩu, ý hành từ, nhớ nghĩ chúng sanh. Như vậy, Minh Thiên ! Đại Bồ tát không sát hạt chúng sanh, không trộm cướp tài sản người khác, không tà dâm, không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không tham dục, không sân nhuế, không tà kiến.

Vì sao Bồ tát không sát hại chúng sanh? Đối với tất cả chúng sanh phải từ bi thương xót, nhớ nghĩ, tàm quí thương xót, vĩnh viễn xả bỏ dao gậy, không trộm cướp của người. Nếu ở làng xóm, hoặc chỗ vắng, có vật của người bỏ rơi, không cho không được lấy. Không tà dâm là nếu người nữ có chủ hay có cha mẹ, anh em, thân tộc bảo hộ, cho đến được cô ta tặng một cành hoa cũng không được khởi dục tưởng. Không vọng ngữ là nếu ở nơi làng xóm, hoặc chỗ vua mà làm chứng giúp người, nên thành thật, giữ lời, thà chết không nói dối, không nói hai lưỡi là thường ở chỗ người này người kia khởi tâm tưởng hòa hợp. Nghe được từ chỗ này không đến nói đằng kia. Nghe từ đằng kia không đến nói chỗ này. Không ác khẩulời nói nhẹ nhàng, khuyên lơn thưa hỏi họ trước. Trọn đời không dùng lời nói đau đớn, ác nghiệt, thô bạo nói với chúng sanh. Không ỷ ngữ là khi nói phải nói lời chơn thật, biết nghĩa mới nói. Vì lợi ích cho người mới nói. Tâm miệng không sai khác. Không tham trước là đối với tài vật của người không khởi lòng tưởng tham muốn, thấy ai đến lấy tâm không tham tiếc. Không sân nhuế là đối với tất cả chúng sanh, diệt trừ các sự sân hận khởi tâm từ bi thương xót, tâm lợi ích, tâm an lạc cho người. Tùy theo tất cả chúng sanh mà khéo nhiếp thọ. Không tà kiến là có cho có giúp có thuyết, có cha mẹ, có đời nay đời sau, có khổ vui, hành động có quả báothế gian. Có A la hán, tự biết thân mình sẽ chứng. Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không thọ thân sau.

Minh Thiên nên biết ! Vị kia không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâmBồ tát tu hành thân từ. Không vọng ngữ, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữBồ tát tu hành khẩu từ. Không tham, không sân, không tà kiếnBồ tát tu hành ý từ. Tu hành thân, khẩu, ý là Bồ tát nhớ nghĩ chúng sanh một cách bình đẳng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Và ở chỗ tất cả chúng sanh đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Được quả báo công đức, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Minh Thiên ! Bồ tát nào hồi hướng như vậy, gọi là Bồ tát tu thiện ít mà được quả báo to lớn, tạo nhiều công đức, phước báo vô lượng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Khi Bồ tát này thành tựu vô lượng công đức, đem công đức ấy hồi hướng trí huệ vô lượng. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề. Ba loại công đức này có ba loại hồi hướng. Những gì là ba? Là quá khứ không, đương lai không, hiện tại không. Không có người hồi hướng, không có pháp hồi hướng, không có chỗ hồi hướng. Đại Bồ tát nên làm hồi hướng này. Khi làm việc hồi hướng này, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh này hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Làm việc hồi hướng này, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, cũng không có pháp hành, không có tám hạng người, không có Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn, không có Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm, không có A na hàm hướng, A na hàm, không có A la hán hướng, A la hán, không có Bích Chi Phật hướng, Bích Chi Phật, không có Phật và người hướng Phật. Vì sao? Vì pháp tánh không duyên bất sanh bất diệt, không chỗ trú. Cho nên Đại Bồ tát dùng ba loại hồi hướng này ba loại công đức thanh tịnh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Bồ tát này hồi hướng rồi, lại nguyện : “Tôi sanh ra chỗ nào cũng thường gặp tam muội thậm thâm của chư Phật, thấy vô lượng Phật, thành tựu đa văn, trí huệ thanh tịnh. Thề không bỏ tất cả chúng sanh”. Khi thuyết như vậy, trăm ngàn trời người đều nguyện muốn vãng sanh về nước Phật A Súc.

Bấy giờ, Phật dạy tôn giả A Nan :

- Khi Ta thuyết pháp môn thậm thâm này, trăm ngàn trời người đều nguyện vãng sanh về nước Phật A Súc. A nan nên biết ! Đây, kia đều nên nguyện vãng sanh về cõi nước Diệu Lạc của Phật A Súc. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường chư Phật, lắng nghe thọ trì chánh pháp, đắc Đà la ni, tu hành như điều thuyết, đều được thành tựu trí huệ bất tư nghì. Làm Phật trong nước ngũ trược đều đồng một hiệu là Cam Lồ Âm Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Nên biết khi được thọ ký, trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề.

Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Theo chỗ con hiểu nghĩa Phật thuyết, nên biết đại công đức này là công đức vô lượng, là công đức vô biên.

Phật dạy :

- Kiều Thi Ca ! Pháp này hoàn toàn thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gọi là kinh gì? Phụng trì thế nào?

- Kiều Thi Ca ! Kinh này gọi là Đại Hồi Hướng cũng gọi là hồi hướng pháp tánh thậm thâm. nên phụng trì như vậy.

Phật dạy Kiều Thi Ca ;

- Nếu có thiện nam, thiện nữ nào học kinh hồi hướng này, nên biết người này ắt đắc pháp Vô sanh nhẫn, có thể độ người chưa độ, trăm ngàn vô lượng chúng sanh an lạc.

Khi thuyết pháp này, chúng Tỳ kheo, thích Phạm thiên, trời, người, A tu la.v.v... nghe lời Phật thuyết đều hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25407)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13786)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15098)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17705)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17115)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14215)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13202)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14461)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16754)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18633)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19066)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18871)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21181)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14806)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39197)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14412)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19388)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16157)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14711)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15240)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14918)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15575)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39159)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14132)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21470)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19699)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17524)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13897)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14119)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21925)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16759)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14544)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14061)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14366)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15687)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24684)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23129)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28571)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15077)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14128)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14650)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18318)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26535)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15206)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14859)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15212)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15156)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
(Xem: 15561)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant