Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})

23 Tháng Ba 201513:04(Xem: 11043)
Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})
Kinh DHAMMIKA SUTTA (AN VI.54)

Tỳ Kheo Ni Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki


Kinh Dhammika SuttaThuở xưa[1] khi các người đi buôn bằng đường biển dong thuyền ra biển, họ mang theo một con chim để nhắm hướng đất liền. Khi thuyền ở chỗ không thấy đất liền, họ thả con chim ra; con chim bay về các hướng đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và xung quanh. Và nếu không thấy đất liền, con chim bay trở lại tàu; còn nếu thấy đất liền gần đó, nó sẽ đi luôn thật. [2]

...

Ngày xưa[3] có một cây vả chúa tên là Kiên Định, thuộc về vua Koravya; cây có năm cành rộng cho bóng mát rất dễ chịu. Tàng cây toả rộng cả trăm dặm, rễ lan ra chừng bốn mươi dặm. Quả của cây này rất tuyệt: lớn như cái thúng - mọng ngon như vậy – và trong như mật ong.

Vua và các cung nữ hưởng một phần; quân đội hưởng một phần; dân trong thành và trong thôn làng hưởng một phần; các bà la mônnhà tu khổ hạnh hưởng một phần; chim và thú hưởng một phần. Không ai canh giữ quả của cây vả này cả, và cũng không ai hãm hại lẫn nhau vì quả của cây này.

Nhưng có một người kia đi đến, ăn quả của cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi. Vị thiên nữ trú nơi cây Kiên Định thầm nghĩ: “Thật kinh khủng, thật lạ lùng, có kẻ lại xấu xa cho đến nổi dám ăn quả cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi! Vậy để cây Kiên Định không còn ra quả nữa xem sao cho biết?” Và cây vả Kiên Định không còn ra quả nữa.

Thế rồi vua Koravya đến chỗ Thiên Chủ Đế Thích (Sakka), gặp ngài và nói: “Chắc Ngài đã biết rồi, Kiên Định - cây vả chúa - không còn ra trái nữa?” Đế Thích bèn hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, làm cây vả chúa Kiên Định ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn. Vị thiên trú nơi cây Kiên Định buồn rầu, khóc lóc, đứng khóc một bên cây, nước mắt đầm đìa.

Thiên Chủ Đế Thích đi đến chỗ vị thiên đang đứng, đến đó rồi nói rằng: “Này thiên nữ, cớ sao mà bà lại buồn rầu, khóc lóc, đứng một bên cây nước mắt đầm đìa?”

“Thưa Ngài, đó là vì một trận mưa to gió lớn vừa ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Này thiên nữ, có phải bà đang trì Pháp của loài cây khi việc này xảy ra không?”

“Nhưng thưa Ngài, thế nào là một cái cây trì Pháp của loài cây?”

“Như thế này, thiên nữ: những người cắt rễ lấy rễ cây; những người lột vỏ cây lấy vỏ; những người hái lá lấy lá; những người hái hoa lấy hoa; những người hái trái lấy trái – không một điều nào đủ là cái cớ để cho một vị thiên chỉ nghĩ đến mình hay rầu rĩ cả. Này thiên nữ, một cái cây trì Pháp của loài cây là như vậy.”

“Vậy thì thưa Ngài, con không đang trì Pháp của loài cây khi mưa to gió lớn ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Nếu như vậy thì, thiên nữ, nếu như bà trì Pháp của loài cây, chỗ ở của bà có thể sẽ hoàn nguyên như cũ.”

“Thưa Ngài, tôi sẽ xin trì Pháp của loài cây! Mong trú xứ của tôi được hoàn nguyên như cũ.”

Khi ấy, Thiên Chủ Đế Thích hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, nâng cây vả chúa Kiên Định dậy, rễ cây lành lặn hoàn toàn.

...


Chú thích của Andrew Olendzki:

[1] Đoạn này cũng có trong DN 11. - Ed

[2] Từ Pali ở đây là tathagatako (E.M. Hare dịch trong bản dịch của PTS là "gone for good"; Andrew Olendzki dich là “truly gone”,) câu chuyện này giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều vì sau Đức Phật lại dùng danh hiệu “Tathagata” để tự xưng.

Tên của Ngài là Siddhattha; là một sa môn khổ hạnh Ngài lấy tên của tộc họ bên thân mẫu của Ngài là Gotama; Ngài được người đương thời biết đến như một bậc hiền trí dưới tên của tộc họ của thân phụ ngài, Sakyamuni; và khi giác ngộ, ngài được gọi là Buddha, Bậc Giác Ngộ. Những người theo ngài thường gọi Ngài là Bhagavant, hay “Thế Tôn,” nhưng tên mà ngài luôn dùng để tự xưng lại là Tathagata (Việt dịch là Như Lai.)

Tathagata là một từ khó dịch ra tiếng Anh. Tatha nghĩa là ‘như vậy,’ (so, thus, in this way); và gata là động tính từ của động từ đi, và có nghĩa là “đã đi rồi”, “khứ” (gone.) Chúng ta thường thấy từ này được dịch ra tiếng Anh là “Thus-gone” hay “the Thus-Gone” (‘đã đi như vậy’, ‘bậc đã đi như vậy’ tức là ‘như khứ’.) Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm) liệt kê 8 cách dịch khác nhau cho từ này (Digha Atthakatha 1.59), trong đó đưa ra những cách phân tích gốc từ rất sáng tạo.

Tôi (Andrew Olendzki) thừa nhận chưa bao giờ thật sự hiểu ý nghĩa từ Tathagata cho đến khi tôi đọc câu chuyện này. Với hình ảnh con chim được thả ra để tìm bờ bên kia, nhiều việc trở nên sáng tỏ.

Trước hết, chúng ta cần nhận ra 2 cách thành ngữ này được sử dụng: một chỉ cho đức Phật như là người không còn sinh lại nữa, và hai là diễn tả tâm thức của người đã giác ngộ vẫn còn trụ thế đối với các trần.

Có lúc một vị A La Hán qua đời, Mara – như một đám mây đen – đi tìm xem tâm thức của vị A La Hán đang tái lập (sinh) ở đâu. Trong trường hợp đó, đức Phật nói rằng tâm thức của A La Hán “không bám trụ vào đâu nữa” (ví dụ SN 22.87.) Theo ý nghĩa này, đức Phật rõ ràng dùng danh hiệu “Tathagata” với ý nghĩa ngài sẽ không còn phải sinh lại nữa – như con chim rời chiếc thuyền không còn quay trở lại, tâm thức của ngài không đậu lại bất cứ cảnh giới nào để bị ràng buộc vào một thân khác.

Nhưng cũng có một nghĩa khác, trong đó thành ngữ Tathagata diễn đạt một cách thích đáng bản chất của tâm đã giải thoát ở trong hiện đời. Khi người hỏi cố tìm cách để bắt đức Phật phải trả lời tâm thức ngài có còn sau khi chết không, ngài quở họ qua việc đáp rằng chính ngay trong đời này tâm thức của Tathagata còn không thể dò được, vì không nằm trong phạm trù đo lường thì làm sao các khái niệm còn, không còn có thể áp dụng được để đo lường tâm thức Như Lai (ví dụ SN 1074.) Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức) – như một con chim đã thoát, không còn quay trở về bám đậu vào thuyền nữa.

Chú thích của người dịch tiếng Việt: từ Như Lai dịch hay hơn là từ tiếng Anh vì, bao hàm được ý nghĩa vô thỉ vô chung (vô khư vô lai). Cách giải thích của Olendzki chỉ nói được một mặt là ‘đi hẳn, không quay trở lại’ nhưng không giải thích chữ ‘such’, ‘so’, ‘in this way’ (Như.)

[3] Đây có thể là một câu chuyện có thật – có lẽ Kiên Định là tên của cả hành tinh, không phải chỉ là một cái cây thần thoại. Làm sao chúng ta có thể giải thích khác hơn về đức nhẫn lớn lao và sự làm lợi ích không ngừng của trái đất trước sự tham lamphá hoạicon người đã làm đối với trái đất? Tôi (Olendzki) nghĩ rằng Gaia, nữ thần ngự trị trái Đất dễ thương của chúng ta đã được Sakka (Đế Thích) dạy cho bài học này từ thuở xa xưa, và với đức Đại Nhẫn đã chịu đựngtha thứ cho những điều tệ hại nhất mà chúng ta đã làm để đáp lại những ân huệ của bà. Nếu đó là sự thật, bà sẽ không báo cho chúng ta biết khi chúng ta đã đi quá xa – vì cho rằng đó là phần trách nhiệm của chúng ta.

Như mọi chuyện Phật giáo khác, truyện này mang nhiều ý nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà cây đại thụ này có năm nhánh, và từ dùng cho mỗi phần quả là khandha - từ dùng để chỉ cho năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức.) Người ăn thoả thích quả của mình khởi lòng tham, và sự khát khao, sự bẻ cành của người này dụ cho sân, giận và ghét bỏ. Đây là hai trong ba gốc rễ của độc từ đó mà các hành động bất thiện phát sinh (gốc độc thứ ba là si – có mặt khi tham, sân có mặt.) Do đó, toàn bộ hình ảnh này đại diện cho một người bị người khác đối xử xấu, hay phải đối diện với sự nhen nhúm của các kết sử của chính mình xúi giục mình làm hại.

Xin để ý câu truyện không dạy “người xấu ác” về sự rồ dại của mình, vì thường ta không thể làm gì để tránh những kẻ này, hay những khuynh hướng này ở trong ta. Câu truyện nhắm dạy về phản ứng của chúng ta trước những lỗi lầm. Sakkha (Đế Thích) cho rằng phản ứng nóng nảy, hờn dỗi trước sự lăng mạ là đứng ở chỗ coi mình là trung tâm điểm, và câu trả lời duy nhất thích hợp trong trường hợp này là lòng từ và sự rộng lượng - đối với mình cũng như với kẻ khác. Như Kinh Pháp Cú cũng đã dạy: “Hận thù diệt hận thù, đời này không từng có. Từ bi diệt hận thù, là định luật nghìn thù. [Dhp 5].

Bài pháp này được giảng cho Dhammika, một tì khưu than thở về cách đối xử của một số người. Đức phật soi lại tình trạng cho Dhammika, cho thấy bản thân ông không đối xử tốt với các bạn đồng tu. Đây là một dịp để đức Phật dạy cho Dhammika, bằng câu chuyện ẩn dụ, “pháp của một sa môn” được tóm tắt trong câu “không sỉ nhục lại người đã sỉ nhục mình, không giận lại người giận mình, không xúc phạm lại người đã xúc phạm mình.”

(TKN Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki. Xin chỉ dùng để phát tặng không, không bán.)
(Source: www.dieukhong.org)


Nguyên văn bản tiếng Anh:
AN 6.54 PTS: A iii 366
Dhammika Sutta:

Dhammika (excerpt) translated from the Pali by Andrew Olendzki © 2005–2012

...

In[1] ancient times when seafaring merchants put to sea in ships, they took with them a bird to sight land. When the ship was out of sight of land, they released the bird; and it flew eastward and westward, northward and southward, upward and all around. And if the bird saw no land, it returned to the ship; but if the bird sighted land nearby, it was truly gone.[2]

...

Once upon a time[3] there was a royal fig tree called Steadfast, belonging to king Koravya, whose five outstretched branches provided a cool and pleasing shade. Its girth extended a hundred miles, and its roots spread out for forty miles. And the fruits of that tree were indeed great: As large as harvest baskets — such were its succulent fruits — and as clear as the honey of bees.

One portion was enjoyed by the king, along with his household of women; one portion was enjoyed by the army; one portion was enjoyed by the people of the town and village; one portion was enjoyed by brahmans and ascetics; and one portion was enjoyed by the beasts and birds. Nobody guarded the fruits of that royal tree, and neither did anyone harm one another for the sake of its fruits.

But then a certain man came along who fed upon as much of Steadfast's fruits as he wanted, broke off a branch, and wandered on his way. And the deva who dwelled in Steadfast thought to herself: "It is astonishing, it is truly amazing, that such an evil man would dare to feed upon as much of Steadfast's fruits as he wants, break off a branch, and then wander on his way! Now, what if Steadfast were in the future to bear no more fruit?" And so the royal fig tree Steadfast bore no more fruit.

So then king Koravya went up to where Sakka, chief among the gods, was dwelling, and having approached said this: "Surely you must know, sire, that Steadfast, the royal fig tree, no longer bears fruit?" And then Sakka created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and toppled the royal fig tree Steadfast, uprooting it entirely. And then the deva who dwelled in Steadfast grieved, lamented, and stood weeping on one side with a face full of tears.

And then Sakka, chief among the gods, went up to where the deva was standing, and having approached said this: "Why is it, deva, that you grieve and lament and stand on one side with a face full of tears?" "It is because, sire, a mighty wind and rain has come and toppled my abode, uprooting it entirely."

"And were you, deva, upholding the dhamma of trees when this happened?" "But how is it, sire, that a tree upholds the dhamma of trees?"

"Like this, deva: Root-cutters take the root of the tree; bark-strippers take the bark; leaf-pickers take the leaves; flower-pickers take the flowers; fruit-pickers take the fruits — and none of this is reason enough for a deva to think only of herself or become morose. Thus it is, deva, that a tree upholds the dhamma of trees."

"Then indeed, sire, I was not upholding the dhamma of trees when the mighty wind and rain came and toppled my abode, uprooting it entirely." "If it were the case, deva, that you were to uphold the dhamma of trees, it may be that your abode might be as it was before." "I will indeed, sire, uphold the dhamma of trees! May my abode be as it was before!"

And then Sakka, chief among the gods, created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and raised up the royal fig tree Steadfast, and its roots were entirely healed.

...

Notes

1.
This passage also appears at DN 11. — Ed.
2.
The word used here for "truly gone" is tathagatako (translated by E.M. Hare in the PTS edition as "gone for good"), and this story helps us considerably in understanding how the Buddha used the epithet "Tathagata" to describe himself.

His given name was Siddhattha; as a wandering ascetic he went by his mother's clan name, Gotama; he was known throughout his world as the sage of his father's family, or Sakyamuni; and when enlightened he became known as Buddha, the Awakened One. His followers most often referred to him as Bhagavant, or "Blessed One," but the name he almost always used for himself was Tathagata.

Tathagata has always been an awkward word to translate. Tatha on its own means something like "so," "thus," or "in this way"; and gata is the past participle of the verb to go, and simply means "gone." We therefore often find the phrase translated in the texts as "Thus-gone" or "the Thus-Gone one." The commentator Buddhaghosa lists eight different ways the word can be construed (Digha Atthakatha 1.59), and in the process engages in some characteristically creative etymology.

I admit to having never really understood the import of the term Tathagata — until I came across this story. With the image of the bird released by the sailors, searching for land upon which to alight, a number of things began to fall into place.

To begin with we should recognize two ways the expression is used: one referring to the Buddha as a being who will no longer be reborn, and the other describing how the consciousness of an awakened person still in this world relates to the object of experience.

Sometimes when one of the arahants passes away, Mara like a dark cloud can be seen searching for where their consciousness has become re-established (i.e., reborn). In such cases, the Buddha says of the arahant that their consciousness is "not stationed anew anywhere" (e.g., SN 22.87). In this sense the Buddha is clearly using the epithet "Tathagata" to mean that he will not be reborn again — like the bird leaving the ship without returning, his consciousness does not alight again in any of the worlds to become re-bound with another body.

But there is also a sense in which the phrase aptly describes the nature of the awakened mind here in this life. When his questioners try to pin the Buddha down about whether his consciousness survives after death, he rebukes them by saying that even here and now the consciousness of a Tathagata is untraceable, since there is no means of measuring or knowing it (e.g., Sn 1074). The awakened mind is said to be unattached to anything in the world — like a bird that does not alight upon and thus get bound to any object of experience.

In fact learning to un-attach the mind from its fetters is a good deal of what insight meditation training is all about. The Satipatthana Sutta, for example, (the main text that gives instructions for insight meditation) states that when practicing mindfulness properly a person "abides independent, not clinging to anything in the world" (MN 10). The householder Anathapindika, just before his death, received instructions from Sariputta urging him to train himself thus: "I will not cling to what is seen, heard, sensed, cognized, encountered, sought after, and examined by the mind; my consciousness will not be dependent on any of that" (MN 143).

All this combines to suggest that a crucial aspect of the Buddha's teaching is the notion of consciousness being unattached to mental or physical objects. In moment-to-moment practice this means letting go of attachments and letting experience be simply what it is. Perhaps with proper practice we can live as a bird freely circling the ship of our body and our world, rather than as one imprisoned in a cage on its deck.

3.
Perhaps this is a true story — perhaps Steadfast is a name for the entire planet, not just a mythological tree. How else might we explain the earth's great forbearance and continued beneficence in the face of the rapacity and destruction we have wrought upon her? I think Gaia, the deity inhabiting the abode of our lovely Earth, was taught this lesson by Sakka in ancient times, and has with great patience and dignity put up with the worst we can render. If this is true, then she will not give us a sign when we have gone too far — perceiving this is our own responsibility.

Like every Buddhist story, this one works on many levels simultaneously. It is no accident that the great tree has five branches, or that the word used for each portion is khandha — the term designating the five aggregates of form, feeling, perception, formations and consciousness. The man eating his fill of fruit is manifesting greed, craving or desire, and his breaking of the branch represents hatred, anger or aversion. These are two of the three poisonous roots out of which all unwholesome action arises (the third — ignorance — is always present when others occur). Thus the entire image is representative of a person being wronged by another or facing the eruption of their own latent tendencies for harmful action.

Notice that the story does not teach the "evil man" the folly of his ways, since there is often nothing one can do to avoid such people or such inclinations in oneself. The teaching is more about our response to transgression. Sakka's point is that it is self-centered to react petulantly to such an affront, and that the only suitable response is with kindness and generosity — to oneself as well as to others. As the Dhammapada so aptly says, "Never at any time in this world are hostilities resolved by hostility; but by kindness they are resolved — this is an eternal truth" [Dhp 5].

This teaching is given to Dhammika, a monk who complains of his treatment by certain laypeople. The Buddha reflects the situation back upon Dhammika, who as it turns out does not treat his fellow monks very well. It is an occasion to teach Dhammika, with the help of this story, the "dhamma of a recluse," which boils down to "not returning the insult of the insulter, the anger of the angry or the abuse of the abuser."








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12357)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11659)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28816)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12058)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13018)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17454)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53085)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35497)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12424)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14390)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16098)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13734)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16855)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13140)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12542)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11628)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19588)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12330)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15041)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15046)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11407)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17203)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20223)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15073)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22895)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11670)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11509)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15860)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18433)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15788)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant