Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu

19 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7178)
Lời Nói Đầu

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông

 

LỜI NÓI ĐẦU

Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa. Từ xưa nhẫn nay, khắp chốn tòng lâm, những hàng long tượng trong giới truy lưu đều xem Thủ Lăng Nghiêm kinh là một trong những bộ kinh then chốt trong nền giáo lý Phật. Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.

Mãi đến đời nhà Minh (1366-1661) tư tưởng Thủ Lăng Nghiêm, được các giới truy lưu, những hàng long tượng để tâm nghiên cứu rầm rộ một thì. Các tiền bối ra sức phát huy diệu lý của kinh. Mỗi Ngài chú giải, sở thích, sáng tác theo sở kiến, sở ngộ của mình. Có những vị phát huy cái thâm cái diệu tàng ẩn trong kinh làm cho sáng tỏ rõ ràng đem lại cho Phật Tử hậu lai nhiều lợi lạc. Cũng có những vị sớ giải mơ màng, gieo vào lòng người con Phật những tư tưởng huyễn hoặc hoang đường, vô phương lý giải. Do vậy, những bậc thạc đức chân tu cùng thời, Ngài Thích Truyền Đăng phải viết ra hai quyển, nhan đề: Lăng Nghiêm viên thông sớ tiền mao. Nội dung để báo động trong giới truy lưu về sự sai lầm của những nhà sớ giải vô tình đã gieo vào lòng nguời con Phật tư tưởng mê tín dị đoan, con đường giải thoát giác ngộ mơ hồ không hy vọng có ngày hiện thực. Trong lời tựa của bộ "Thủ Lăng Nghiêm chính mạch" thì Ngài Chơn Giám cũng than phiền tương tợ !…

Việt Nam ta, từ những thập niên 30 về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo, các trường cao cấp Phật học đều dùng bộ Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ của Ngài Hàm Thị mà giảng dạy trong giáo trình.

Qua quá trình tu họcnghiên cứu, bỉ nhân tôi, thấy phần "Trực Chỉ" của bộ kinh này, đại cươngnhận xét, có nhiều ý thú thâm sâu, cũng có thể làm kim chỉ nam cho giới truy lưu giồi mài, tư duytu dưỡng có đem lại được những điều bổ ích. Dù vậy, sự bổ ích đó chỉ nghiêng nặng cho giới truy lưu, cho những người dồi dào đức tin đối với Tôn giáo của mình, đức tin đó được khép kín trong chốn tòng lâm "thanh tịnh" cổ kính "u nhàn".

Cái tâm nhận thức của Tăng tín đồ Phật tử trong xã hội ngày nay đòi hỏi nền giáo lý Phật giáo phải khế cơ, khế lý; nghĩa là phải được cụ thể hóa rõ ràng hơn. Phải biến nền giáo lý đó thành một thứ chất dinh dưỡng đem lại cho con người sự bồi bổ, sự ích lợi cho bản thân, cho gia đình, cho xã hộiđáp ứng yêu cầu tri thức của người đệ tử Phật ngang bằng tầm cỡ của thời đại. Bởi vì, xã hội loài người, vật chất cũng như tinh thần luôn luôn trong tiến trình vận độngchuyển hóa, mà cái gì không tiến tức đã lùi.

Đất nước của chúng ta đang ở trong tiến trình chuyển mình và hoàn toàn đổi mới. Mới về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tất nhiên phải mới cả tư tưởng. Nói đến sự kiện này, tôi thành thật không giấu giếm rằng: Tôi rất may mắn, có phúc duyên, tôi được kịp thời và đúng lúc, hòa mình vào xã hội mới để học tập. Tôi tìm học những cái hay cái mới để bồi dưỡng cho kiến thức của mình. Và sự thật, thời gian qua đem lại cho tôi một kết quả rất bằng lòng, và bằng lòng thật sự, bằng lòng trọn vẹn. Tôi vận dụng những kiến thức của thời đại, dung hòa vào cái vốn liếng Phật học sẵn có của mình. Tôi thấy vô cùng sáng tỏ. Rồi vì đàn em hậu tiến trong giới truy lưu vận dụng vào kinh điển trong giáo trình mà mình đã có, tôi viết thành những giáo án Phật học. Việc làm này tôi chưa dám nói là hoàn bị mọi mặt yêu cầu, nhưng sự thật trước mắt là người học có cái nhìn chính xác hơn đối với lời kinh, ý Phật. Và tự mình gỡ bỏ cho mình những cặp kính ảm đạm mơ hồ, nhìn đâu cũng thấy toàn bộ một màu buồn tẻ hoang đường, huyễn hoặc, siêu hình vô phương lý luận. Tai họa của sự nhận thức sai lầm chơn lý, có nuôi dưỡng trong con người một tâm hồn yếu đuối, làm cho con người mất hết sức tự tin; con người không tin khả năng thành Phật của mình, không tin nổi rằng: mình vốn có Phật tánh. Con người đã mất khả năng tự tin thì suốt cuộc đời mệnh danh là đệ tử Phật nhưng "linh hồn" thì đã gởi gấm cho "đấng siêu nhiên" nào đó ở một thế giới xa xăm ngoài tầm lý luận của trí thức con người. Đó là cái buồn chung cho trong hàng đệ tử Phật lạc lối ngày nay.

Học kinh Thủ Lăng Nghiêm, con người sẽ xác định được vị trí của mình đối với quả vị Bồ Đề Niết Bàn vô thượng. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta sống bằng "Chơn tâm thường trú" sinh hoạt trong "Thể tánh tịnh minh". Mà tất cả mọi người đệ tử Phật trong chúng ta đều có "Chơn tâm thường trú" và "Thể tánh tịnh minh" ấy. Chỉ khác nhau ở chỗ:

Còn phiền não khách trần hay phủi hết phiền não khách trần vậy thôi.

Cái từ Trực Chỉ trong giáo án "Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương" nầy không lệ thuộc, không tương quan gì với ý tứ của Ngài Hàm Thị ở thời Minh xa xưa bên Trung Quốc. Mà phần trực chỉ nầy, thể hiện từ quá trình học tập trong thời đại mới với những tư tưởng mà tôi rất bằng lòng như đã nói ở trên.

Để trắc nghiệm sự bằng lòng của mình xem có chủ quan không, tôi đem cái nhận thức mới, vận dụng qua nền giáo lý thậm thâm của Phật, tôi giảng dạy cho Tăng Ni trường Phật học Cao cấp cơ sở I ở Thủ đô Hà Nội, từ năm 1981 đến 1985. Lắng nghe dư luận: Kết quả tốt. Tôi đang thí nghiệm tư tưởng đó ở Trường Phật học Cao cấp cơ sở II ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1985 đến nay. Lắng nghe, có kết quả tốt. Tôi giảng cho Tăng Nitín đồ Phật tử ở nhiều giảng đường khá đông đảo ở thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều năm liên tục. Lắng nghe, đều kết quả tốt.

Nay tôi viết giáo án "Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương" nầy nhằm phục vụ cho đối tượng Tăng Ni sinh Phật học cao cấp. Hiện nay thì tôi đang giảng cho Tăng Ni sinh năm thứ 3 trường Phật học cao cấp cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh. Dù vậy, trình độ của người Phật tử trí thức ngày nay, có rất nhiều người hâm mộ nghiên cứu học tập tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa thâm diệu của kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy.

Đã là giáo án, tất nhiên còn phải triển khai hướng dẫn rộng thêm nhiều mặt.

Đã là đề cương thì không thể đòi hỏi ở đây những chi tiết quá rộng rãi ở kinh văn nguyên chất.

Tuy nhiên, Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương tương đối đủ sức giúp cho người đọc nắm lấy cái bâu của áo, xách lên cái giềng của lưới, nghĩa là có thể tiếp thụ được cái ý thú thâm diệu, tư tưởng cốt tủy của lời kinh. Dù vậy, sự nhận thức và tiếp thụ đến mức độ nào việc đó còn tùy thuộc một phần ở con người nữa; cũng như trông một viên ngọc kim cương, chắc chắn ai cũng thấy biết được sắc màu của viên ngọc, nhưng đánh giá đúng trọn vẹn màu sắc hay không còn tùy ở sự có biết thay đổi hướng đứng hay không để nhìn viên ngọc của chính mình.

Việc phê phán khen chê, tôi đã có dự trù và sẵn sàng hoan hỉ tiếp thu. Trong kinh Niết Bàn, đức Phật kể câu chuyện năm chàng mù sờ voi… Rồi họ ấu đả với nhau, vì trong đó, không có anh nào cho rằng mình không biết rõ con voi thật. Con voi như cây cột, con voi như cái quạt mo, vẫn chưa phải vô lý, kia mà !

Này ! Các bạn ơi ! Tôi đã thấy được con voi thật ! Nó thường phe phẩy hai tai, nó dẫm tới dẫm lui và tỏ vẻ thèm thuồng, muốn xin những lóng mía của khách nhàn du trong "vườn bách thú" ấy.

Viết tại Huỳnh Mai Tịnh Thất
Mùa thu năm Bính Dần
Ngày 23 tháng 09 năm 1986

Pháp Sư Thích Từ Thông

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188709)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43810)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25054)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30808)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21026)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38753)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27375)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31090)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33098)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23964)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16970)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20507)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31906)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18083)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20549)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27019)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18049)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25551)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26636)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36584)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28052)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27284)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30327)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37103)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37252)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32279)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55141)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36908)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27566)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28302)
Công Phu Khuya
(Xem: 37942)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25399)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24131)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11229)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14507)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10624)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant